View Single Post
Old 01-01-1970, 07:00 AM   #4
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 593 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default

HUYỆN ĐỨC HUỆ </span>

Địa chỉ: khu vực 2 thị trấn Đông Thành huyện Đức Huệ
Điện thoại: 854230, Fax: 854771

1. Vị trí địa lý kinh tế:
Huyện Đức Huệ nằm ở phía bắc tỉnh Long An với diện tích tự nhiên (DTTN) 43.092,4 ha, chia thành 10 đơn vị hành chính (9 xã và 1 thị trấn). Ranh giới hành chính huyện Đức Huệ tiếp giáp với 4 huyện của tỉnh Long An, tỉnh Tây Ninh và Campuchia, cụ thể phía Đông Bắc giáp huyện Đức Hòa, phía Nam và Đông Nam giáp huyện Thủ Thừa và Bến Lức, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Thạnh Hóa tỉnh Long An và Campuchia
Đức Huệ ở vào vị trí là rìa phía Đông Bắc vùng Đồng Tháp Mười, tiếp giáp vùng Đông Nam bộ, là nơi chuyển tiếp từ Đông Nam bộ xuống ĐBSCL. Từ vị trí địa lý kể trên, tiếp nhận nguồn nước ngọt bổ sung từ hồ Dầu Tiếng, Đức Huệ phát huy thế mạnh sản xuất nông sản hàng hóa đặc trưng của ĐBSCL như: lúa, mía đường, thịt (heo, bò, vịt), tôm cá và lâm sản (tràm). Đồng thời, với vị trí là cửa ngõ gần nhất từ biên giới Campuchia - qua thị trấn Hậu Nghĩa về TP. Hồ Chí Minh, nên có lợi thế phát triển dịch vụ thương mại (xuất nhập khẩu qua biên giới), thu hút vốn đầu tư từ ngoài vào (kinh tế trang trại, dịch vụ, thương mại,. . .).
Trong tương lai, khi hoàn thành xây dựng các trục giao thông chính và tuyến đường vành đai biên giới N1 sẽ giúp cho Đức Huệ khai thác các lợi thế phát triển kinh tế - xã hội, nhất là kinh tế dịch vụ phát triển mạnh, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Tuy nhiên, vị trí địa lý cũng gây cho Đức Huệ một số hạn chế: Do là nơi chuyển tiếp giữa Đông Nam bộ và ĐBSCL với mẫu chất là phù sa cổ và phù sa mới cùng các vật liệu sinh phèn xen kẽ phủ lên nhau, nên 100% diện tích đất thuộc loại ''đất có vấn đề'', cộng với khi chưa có hồ Dầu Tiếng thì toàn bộ lãnh thổ huyện Đức Huệ bị nhiễm mặn 4 g/l từ 3 - 4 tháng/năm, kết cấu hạ tầng chậm được đầu tư và cũng là một trong những huyện nghèo nhất của tỉnh Long An (số hộ nghèo còn đến 19,3%). Đồng thời, với 25 km đường biên giới (thuộc 4 xã) là ''địa bàn nóng'' của nạn buôn lậu, lôi cuốn không ít nguồn nhân lực tham gia, gây trễ nải sản xuất nông nghiệp cũng như tâm lý kiếm tiền dễ dàng hơn là lao động chân chính.

2.Đặc điểm, điều kiện tự nhiên:
Khí hậu - thời tiết: Khí hậu huyện Đức Huệ mang tính chất đặc trưng nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa.
Theo số liệu quan trắc của trạm Hiệp Hòa nhiệt độ bình quân năm là 27,2oC, tháng 5 là tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình 29,7oC và tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 23,6oC. Biên độ nhiệt trong năm dao động khoảng 6,1oC và biên độ nhiệt ngày và đêm dao động cao (từ 8oC đến 10oC). Tổng tích ôn 9.928oC/năm. Đây là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, đặc biệt là cây mía, lúa, ngô, rau đậu thực phẩm.
Lượng mưa trung bình năm khá lớn (1.970 mm/năm) và phân bố theo mùa rõ rệt. Tổng lượng mưa trong mùa mưa thực sự 1.325mm, bắt đầu ngày 16/V và kết thúc ngày 21/X (kéo dài 164 ngày). Mùa mưa trùng với mùa lũ gây ngập úng, cản trở quá trình sản xuất của phần lớn diện tích đất nông nghiệp.
Nguồn nước và chế độ thủy văn :
Đức Huệ nằm ở vùng dự án thủy lợi kẹp giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây; song nguồn nước sử dụng cho sản xuất nông nghiệp và đời sống, . . . chủ yếu từ sông Vàm Cỏ Đông phát nguyên từ vùng đồi thấp thuộc tỉnh Kam Pong Cham của Campuchia, chảy len lỏi và uốn lượn qua các khe đồi bát úp rồi đổ vào lãnh thổ Việt Nam tại Gò Dầu Hạ (tỉnh Tây Ninh), tiếp đó chảy qua Long An đổ ra biển Đông tại cửa Soài Rạp. Dòng chính dài 260 km, phần sông Vàm Cỏ Đông là ranh giới phía Đông Bắc của Đức Huệ dài 32 km, đây là đoạn trung lưu (Hiệp Hòa), sông rộng bình quân 200m, sâu -17m, lưu lượng mùa kiệt tại Gò Dầu hạ 12,9 m3/s.
Khi chưa xây dựng hồ Dầu Tiếng, Vàm Cỏ Đông là ''dòng sông chết'' về mùa khô, mặn 4g/l qua khỏi cửa Rạch Tràm (Đức Huệ) hàng chục km, nên lúc đó Đức Huệ chỉ là vùng đất hoang hoặc có một số diện tích trồng một vụ lúa mùa mưa.
Hiện nay, nhờ có hồ Dầu Tiếng xả nước qua kênh Tây và nước hồi quy nên mặn 4g/l đã lùi xuống Xuân Khánh, phần sông Vàm Cỏ Đông thuộc Đức Huệ đã được ngọt hóa quanh năm. Bằng hệ thống các kênh nối trực tiếp với sông Vàm Cỏ Đông kéo nước ngọt vào nội đồng (hướng Đông - Tây) đã tạo động lực quan trọng và có ý nghĩa gần như quyết định thúc đẩy phát triển sản xuất và cải thiện đời sống cho nhân dân ở huyện Đức Huệ.
Trên bề mặt đất huyện Đức Huệ có 62,86% diện tích được phủ bởi lớp trầm tích Holocene (QIV), còn gọi là phù sa mới; còn lại 36,02% phủ bằng trầm tích cổ Pleistocene (QI - QIII). Trong trầm tích Holocene, nước ngầm bị nhiễm phèn, độ sâu xuất hiện tầng nước ngầm từ 120 - 200m, có độ khoáng hóa cao (> 3g/l). Nước ngầm ở trầm tích cổ có hàm lượng tổng số độ khoáng hóa : 1 - 3 g/l.
Quá trình thực hiện chương trình nước sạch nông thôn và khoan khai thác nước ngầm của UNICEF thường phải khoan sâu > 150m, nước giếng khoan muốn sử dụng an toàn phải qua thiết bị lọc.
Như vậy, Đức Huệ là nơi nghèo nước ngầm, nước có độ khoáng hóa cao, đầu tư khoan khai thác (giếng) phải đủ độ sâu và bắt buộc phải có thiết bị lọc nước mới sử dụng cho sinh hoạt được, nên cần đầu tư lớn và đồng bộ.
Chế độ thủy văn:
Sông rạch huyện Đức Huệ chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều của Biển Đông, thời gian một ngày triều là 24giờ 50 phút, có hai đỉnh và hai chân triều, song biến động không đều theo tháng. Đỉnh triều lớn nhất vào tháng 12, nhỏ nhất vào tháng 4, tháng 5; biên độ triều trung bình mùa kiệt 0,75 - 0,85m, mùa lũ 0,45 - 0,60m. Do vậy, vào mùa khô có thể lợi dụng thủy triều để tưới nước hoàn toàn tự chảy; song do biên độ triều không lớn và cường độ triều không đủ mạnh như ngoài dòng chính nên khả năng đẩy nước từ sông Vàm Cỏ Đông vào sâu trong nội đồng bị yếu dần.
Lũ lụt ở Đức Huệ do ảnh hưởng của hai nguồn sinh lũ là: lũ từ thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông và lũ từ sông MêKông chuyển qua sông Vàm Cỏ Tây gây ra. Lũ đến muộn (tháng 9, 10), độ sâu ngập dao động từ 0,7 - 1,5m, nơi ngập sâu nhất là các xã phía Nam như Bình Hòa Hưng, Bình Thành, Bình Hòa Nam.
Nói chung, lũ có tác động ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống, nhưng không ác liệt như ở các huyện đầu nguồn (Vĩnh Hưng, Tân Hưng,. . .). Song, lũ lịch sử năm 2000 cũng gây tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống (làm chết 9 người, 4.767 ha lúa bị ngập, trong đó bị mất trắng : 2.612 ha, chết 250.000 cây lâm nghiệp, 307 phòng học bị ngập, 166 km đường bị ngập, cầu bị hư hỏng, cuốn trôi : 39 chiếc, 5.520 hộ có nguy cơ bị đói,. . .) Chi tiết xem phụ lục

3. Tài nguyên:

Đất: Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỷ lệ 1/25.000 năm 1998 của Phân viện Quy hoạch - TKNN cho thấy: Toàn huyện có 3 nhóm đất với 9 đơn vị chú giải bản đồ đất; trong đó, nhóm đất phù sa nhiễm phèn 3.063 ha (chiếm 7,11% DTTN), nhóm đất xám có 15.523 ha (chiếm 36,02% DTTN) và nhóm đất phèn 24.024 ha (chiếm 55,75% DTTN). Như vậy, 100% diện tích đất của huyện Đức Huệ thuộc loại ''đất có vấn đề'', do đó sử dụng vào sản xuất nông nghiệp được xem là một hạn chế lớn nhất trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện Đức Huệ.
Đất huyện Đức Huệ xếp ở cấp ít thích nghi hoặc phải cải tạo mới thích nghi với 2 vụ lúa, mía, đậu phộng, đậu đỗ nên cây sinh trưởng phát triển cho năng suất thấp hơn các vùng đất tốt (đất phù sa). Vì vậy, đây cũng là một hạn chế trong sản xuất nông nghiệp.
Địa chất: Đất đai của huyện Đức Huệ hình thành từ hai loại trầm tích: Trầm tích phù sa non trẻ (Holocene) và trầm tích phù sa cổ (Pleistocene); trong đó đa số là trầm tích Holocene có chứa vật liệu sinh phèn.
- Trầm tích Holocene bao phủ trên 60% DTTN của huyện, nó phủ trùm lên trầm tích phù sa cổ.
- Mẫu chất phù sa cổ bao trùm gần 36% DTTN.
- Trầm tích không phân chia khoảng 4% DTTN.
Do vậy, khi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cần tính toán đầu tư đảm bảo độ ổn định bền vững.
Tài nguyên rừng: Năm 1995 diện tích rừng chỉ có 676 ha, trong đó tràm cừ 510 ha; đến năm 2000 diện tích rừng tăng lên 5.931 ha (tỷ lệ che phủ 14,69%) kể cả cây lâu năm, trong đó bạch đàn 2.535 ha, tràm cừ 2.437 ha, tràm bông vàng 959 ha. Rừng mới trồng từ năm 1997 - 1999 nên trữ lượng không lớn.
Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 327/CT, 773/TTg và 661, đã góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.
Tài nguyên thủy sản: Qua điều tra của Viện Nghiên cứu Thủy sản II, có nhận xét:
- Các thủy vực ở huyện Đức Huệ có những nhóm loài đặc trưng như : tảo lục, tảo bánh xe, côn trùng thủy sinh, nhóm tôm cá nước ngọt.
- Thủy sinh vật có đến 334 loài, gồm : 181 loài tảo, 93 loài động vật nổi, 60 loài động vật đáy.
- Trên sông Vàm Cỏ Đông có 55 loài cá, 9 loài tôm; trong đó, cá đồng và tôm càng xanh có giá trị kinh tế, song sản lượng không lớn.
Ngoài ra, do môi trường nước nội đồng ngày càng được ngọt hóa, độ chua và thời gian ảnh hưởng chua phèn giảm, tạo điều kiện để các loài thủy sản về cư trú và phát triển, mở ra hướng đi trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi.
Tài nguyên khoáng sản: Theo các tài liệu điều tra địa chất thổ nhưỡng, trên địa bàn huyện Đức Huệ nghèo về khoáng sản.
- Hiện tại ở một số lung phèn có than bùn, tập trung nhiều ở xã Mỹ Quý Tây, trấp Mốp Xanh, lớp than bùn dày 0,75 - 1,50m. Thành phần than bùn có độ tro thấp, mùn cao, lượng khoáng cao, có thể sử dụng làm phân bón hoặc chất đốt; song cần tính toán kỹ nếu muốn khai thác, bởi khai thác than bùn sẽ tạo điều kiện gia tăng oxyt hóa phèn, giảm pH, tăng độc tố trong dung dịch đất.
- Cát trên sông Vàm Cỏ Đông từ cửa Rạch Tràm đến đầu kênh Trà Cú Thượng có trữ lượng khoảng 1 triệu m3, song khai thác phải quản lý chặt chẽ, tránh làm thay đổi dòng chảy và hủy hoại môi trường.

4. Dân số và lao động:
Dân số trung bình năm 2000 của huyện Đức Huệ là 62.567 người, mật độ dân số 145 người/km2, chỉ bằng 50% mức trung bình mật độ dân số của tỉnh Long An (294 người/km2) nên Đức Huệ được xem là “vùng đất rộng người thưa”; đặc biệt dân số khu vực thành thị chỉ có 5.606 người, chiếm 8,96% tổng dân số (chỉ bằng 1/3 tỷ lệ dân số thành thị cả nước), dân số nông thôn 56.912 người (chiếm 90,9%), tốc độ tăng dân số bình quân 1,36%/năm. Điểm đáng lưu ý là phần lớn cư dân đến đây định cư sau năm 1975 (dân kinh tế mới), cần cù chịu khó lao động, song thiếu kinh nghiệm, trình độ văn hóa và chuyên môn thấp.
Lao động: Tổng lao động toàn huyện năm 2000 là 31.910 người; trong đó, lao động nông - lâm nghiệp 28.086 người chiếm 88,02%, lao động công nghiệp - TTCN 325 người chiếm 1,02% và lao động thương mại - dịch vụ 1.765 người chiếm 5,53%, lao động khác 5.43%. Như vậy, nguồn nhân lực tập trung chủ yếu cho sản xuất nông - lâm nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm và có phần chưa được hợp lý.
Nguồn nhân lực ở huyện Đức Huệ có chất lượng thấp, đây là một nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế vì nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất. Số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý trong các ngành là 713 người (chiếm 2,23% lao động xã hội); trong đó, trình độ đại học 69 người, cao đẳng 136 người, trung cấp 461 người, dưới trung cấp 47 người. Nếu kể cả trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật ước khoảng 3% lao động thì tổng cộng số lao động được đào tạo là 5,25%, song lại chủ yếu tập trung ở khu vực quản lý nhà nước, giáo dục, y tế. Do vậy, đây là một tồn tại lớn của huyện Đức Huệ.
Để phát triển kinh tế - xã hội, nhất thiết phải đào tạo, nâng cao mặt bằng dân trí, trình độ chuyên môn cho người lao động, để họ có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất (với chỉ tiêu là 15 - 20% số lao động được đào tạo).

5. Đánh giá chung:

Lợi thế:
- Đức Huệ là huyện biên giới giáp Campuchia (có đường ranh giới dài 25 km), từ cửa khẩu Tho Mo về trung tâm vùng PTKTTĐPN ngắn nhất (cách TP. Hồ Chí Minh 65 km), nên có lợi thế phát triển dịch vụ thương mại xuất nhập khẩu qua biên giới (kinh tế cửa khẩu) . Đồng thời, Đức Huệ còn là một cửa ngõ thông thương giữa Đông Nam bộ và ĐBSCL; hơn nữa, huyện Đức Huệ nằm ở ngoại vi địa bàn KTTĐ của tỉnh, là vành đai xanh với các nông sản hàng hóa có thế mạnh như : lúa - gạo, mía đường, đậu đỗ, thịt bò, heo, vịt có thể tiêu thụ thuận lợi ở vùng Đông Nam bộ, một thị trường lớn nhất Việt Nam.
- Đức Huệ là huyện có nguồn nước ngọt dồi dào với hệ thống kênh mương thủy lợi tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là hệ thống kênh tạo nguồn, bảo đảm đủ nguồn nước ngọt cho sản xuất.
- Đất đai có khả năng mở rộng sản xuất nông - lâm nghiệp lên đến: 6.513 ha, đất lúa một vụ còn 5.113 ha nên còn có thể mở rộng diện tích và tăng vụ.
- Trong những năm qua, các ngành thủy lợi, giao thông, điện đã đầu tư tạo cơ sở vật chất ban đầu, với dự báo trong tương lai gần đường vành đai biến giới N1 được đầu tư xây dựng, kết nối với cơ sở hạ tầng khác, góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân trong huyện. Hệ thống giao thông đường thủy nội và ngoài huyện có nhiều thuận lợi, giá vận chuyển thấp, cũng được xem là một lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội huyện Đức Huệ.
- Trong quá trình phát triển sản xuất thông qua ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất ngành nông nghiệp, đã xây dựng thành công các mô hình sản xuất đạt hiệu quả cao cả về kinh tế - xã hội - môi trường. Do vậy, đây là tiền đề quan trọng cho sản xuất hàng hóa tiếp tục phát triển một cách bền vững.
Hạn chế:
- Đất đai của huyện Đức Huệ 100% diện tích là ''đất có vấn đề'' lại phân bố trên các địa hình khá phức tạp (giồng cao xen kẽ với lòng sông cổ), phù sa cổ và trẻ phủ lẫn nhau. Đây được xem là hạn chế lớn trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế, đầu tư cải tạo đất tốn kém, năng suất cây trồng thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh kém trên thị trường.
- Cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là giao thông đường bộ, công trình kiểm soát lũ và cơ sở vật chất phục vụ dân sinh (trường học, y tế, chợ, . . .) còn thiếu nghiêm trọng, thông tin liên lạc còn yếu,. . . cộng với hàng năm chịu ảnh hưởng của lũ lụt và thiên tai, đã và đang là những cản ngại trong quá trình phát triển kinh tế, v.v . . .
- Đại bộ phận dân cư của huyện Đức Huệ là dân kinh tế mới, đến định cư sau năm 1975, có đời sống khó khăn, thu nhập thấp; chất lượng lao động thấp (hơn 95% chưa được đào tạo).
- Công nghiệp - TTCN và thương mại - dịch vụ chưa phát triển, nên không hỗ trợ tích cực cho nông nghiệp phát triển; nền kinh tế của huyện Đức Huệ ''thuần nông'', thu nhập của nhân dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp (>80%), trong khi lũ lụt, thiên tai diễn ra liên tiếp, cộng với biến động bất lợi về giá cả nông sản, làm cho đời sống người dân càng khó khăn, khả năng tích lũy tái đầu tư cho sản xuất hạn chế.
- Tình hình buôn lậu và an ninh trên tuyến biên giới Campuchia đang còn diễn biến phức tạp, do đó huyện Đức Huệ phải gắn phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng. Mặt khác, do đường biên giới giáp Campuchia dài đến 25 km, nạn buôn lậu hầu như không giảm sẽ kéo theo một số lượng không nhỏ lao động của huyện tham gia, làm trễ nải sản xuất.
- Khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài vào để phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng ở huyện Đức Huệ có hạn chế bởi sức hút quá lớn ở địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam, cũng như khu vực dọc quốc lộ 1 tỉnh Long An, cho nên Đức Huệ muốn phát triển kinh tế phải dựa vào chính nội lực mà tiềm năng này của huyện lại rất có hạn.
Qua nghiên cứu, phân tích các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Đức Huệ cho thấy thuận lợi tương đối ít và còn dưới dạng tiềm năng, muốn khai thác ngoài việc huy động tối đa nội lực, rất cần có những nguồn ngoại lực từ bên ngoài hỗ trợ đầu tư. Khó khăn, hạn chế còn nhiều nên việc định hướng phát triển kinh tế cho giai đoạn 2001 - 2010 là điều không đơn giản, đòi hỏi phải được luận chứng chặt chẽ nhằm xác lập các nguồn lực mới, khắc phục khó khăn, chuyển hóa tiềm năng thành hiện thực là : Phát triển kinh tế toàn diện - bền vững, giữ vững an ninh chính trị, xây dựng cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.

6. Quan điểm và mục tiêu phát triển:

Quy hoạch kinh tế - xã hội huyện Đức Huệ cần được xây dựng trên các quan điểm định hướng mang đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, luận cứ cho được những mục tiêu chiến lược và cụ thể trên cơ sở hệ thống các giải pháp đồng bộ, làm tiền đề cho công tác quản lý đầu tư phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng, thực hiện thắng lợi nghị quyết Huyện Đảng bộ Đức Huệ và Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ IX đề ra.
Quan điểm định hướng: Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của huyện Đức Huệ là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội toàn diện, nhằm khai thác sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng nội lực của huyện và tận dụng hết những thuận lợi, điều kiện từ bên ngoài (ngoại lực), đạt các mục tiêu tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, nâng cao mức sống cho nhân dân, xây dựng nông thôn mới và từng bước đô thị hóa hóa nông thôn.
- Phát triển kinh tế toàn diện, sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ. Phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực của huyện, tranh thủ nguồn hỗ trợ của tỉnh, trung ương và các tổ chức quốc tế.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác trên tinh thần tự nguyện của người lao động.
- Kết hợp hài hòa giữa việc khai thác nội lực với tranh thủ sự giúp đỡ đầu tư từ bên ngoài, có trọng điểm, tập trung vào những ngành, những địa bàn hội đủ các yếu tố phát triển, nhất là nông nghiệp chất lượng cao, công nghiệp chế biến và kinh tế cửa khẩu. Khai thác hợp lý các lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên đất, nguồn nước, mở rộng sản xuất, lấy hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống làm tiêu chuẩn phát triển.
- Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa các ngành sản xuất, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng ổn định và bền vững. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và hiệu quả, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, thương mại và dịch vụ, từng bước đầu tư công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến nông lâm sản và cơ khí sửa chữa, vật liệu xây dựng.
- Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mặt bằng dân trí, đảm bảo quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 18 của Tỉnh ủy Long An.
- Mở rộng sản xuất đi đôi với bảo vệ gìn giữ môi trường sinh thái, ngăn chặn mọi nguy cơ gây ô nhiễm.
- Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với an ninh quốc phòng, giữ vững và củng cố tuyến phòng thủ biên giới, xứng đáng với vị trí tiền tiêu an ninh quốc phòng của tỉnh Long An và cả nước.

7. Mục tiêu chung:
- Xây dựng Đức Huệ trở thành huyện có kinh tế phát triển, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo vững chắc về an ninh quốc phòng, gia tăng phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở chuyển dịch hợp lý, hiệu quả cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh dịch vụ và công nghiệp, từng bước công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
- Nhanh chóng thoát khỏi nền kinh tế thuần nông, độc canh; sớm tạo nên sự phát triển cân đối, toàn diện, phát huy các thế mạnh về nông - lâm nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ - thương mại, xây dựng Đức Huệ thành huyện vững mạnh ở vị trí tiền tiêu trên tuyến biên giới phía Tây Nam tổ quốc.

8. Mục tiêu cụ thể:
<span style=\'color:purple\'>
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn: 2001 - 2010 là 10,53%/năm, trong đó giai đoạn 2001 - 2005 là 10,93%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 là 10,12%/năm.
- Cơ cấu kinh tế tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp để cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng Nông lâm nghiệp – Thương mại dịch vụ - Công nghiệp - TTCN. Cụ thể đến năm 2010: Nông lâm nghiệp chiếm 59,63%, công nghiệp - xây dựng chiếm 7,40%, thương mại - dịch vụ chiếm 32,97%.
- GDP (theo giá thực tế) bình quân đầu người năm 2005 là 7,0 triệu đồng, tương đương 466 USD và đến năm 2010 là 12,8 triệu đồng, tương đương 850 USD.
- Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách năm 2005 là 3,0%/năm và năm 2010 là 4,0%/năm.
- Giảm tỷ lệ tăng dân số xuống 1,36% vào năm 2005 và còn 1,2% năm 2010.
- Năm 2005 giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 10 - 12% và năm 2010 còn 5 - 6%.
- Phổ cập tiểu học theo độ tuổi vào năm 2005, phổ cập phổ thông trung học theo chuẩn quốc gia vào năm 2006.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện năm 2005 là 85,0% và năm 2010 là 95,0%.
- Tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch năm 2005 là 60,0% (khu vực đô thị 100,0%) và năm 2010 là 95,0%.
LeGiang is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn