View Single Post
Old 01-01-1970, 07:00 AM   #8
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 593 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default

HUYỆN TÂN TRỤ </span>

Địa chỉ: thị trấn Tân Trụ, huyện Tân Trụ.
Điện thoại: 867194, Fax: 867064

1. Vị trí địa lý:

Tân Trụ thuộc vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long kẹp giữa hai công sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, là một huyện nằm phía Đông Nam của tỉnh Long An. Phiá Bắc giáp huyện Bến Lức, phiá Đông giáp huyện Cần Đước, phiá Nam giáp huyện Châu Thành và phiá Tây giáp thị xã Tân An và huyện Thủ Thừa.
Huyện Tân Trụ có tổng diện tích tự nhiên khoảng 106,50 km2, chiếm 2,37% diện tích tự nhiên của tỉnh; được chia ra 10 xã và 01 thị trấn. Thị trấn Tân Trụ là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá của huyện.
Tân Trụ có vị trí địa lý rất thuận lợi. Từ thị trấn Tân Trụ, trung tâm của huyện cách thị xã Tân An của tỉnh khoảng 20 km về phía Tây và cách TP. HCM chỉ khoảng 40 km về phía Nam.

2. Điều kiện tự nhiên:
Khí hậu: Khí hậu của huyện Tân Trụ thuộc vùng nhiệt đới cận xích đạo gió mùa, với hai mùa khô và mùa mưa tương phản. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10; mùa khô bắt đầu tư tháng 11 đến hết tháng 4 năm sau. Mùa mưa ở Tân trụ thường đến sớm hơn và chấm dứt sớm hơn các huyện phiá Bắc của tỉnh Long An. Tổng lượng mưa trung bình nhiều năm khoảng 1.900 mm, tập trung vào các tháng 6,7,8,9 và 10, chiếm khoảng 90% lượng nước mưa (khoảng 1.500 - 1.600 mmm). Lượng mưa phân bố không đều trong năm: mùa mưa chiếm 85 - 90% lượng mưa cả năm. Từ tháng 9 đến tháng 10 có lượng mưa lớn trùng với mùa lũ nên thường xảy ra ngập úng. Về mùa khô lượng mưa thấp. Mưa ít nhất vào các tháng 2 và 3, vào thời điểm này hầu như không có mưa. Lượng bốc hơi ngược lại, cao ở mùa khô, chiếm tới 67 - 68% tổng lượng bốc hơi cả năm. Điều này thường xảy ra quá trình oxy hoá tầng phèn làm tăng hàm lượng SO4 và Al2O3 gây ra độc hại cây trồng và vật nuôi.
Chế độ mùa mưa là yếu tố khí hậu cơ bản tạo ra sự tương phản giữa 2 mùa khô và mùa mưa. Sự tương phản về mùa trong năm chi phối các yếu tố khí hậu khác: chế độ nhiệt, chế độ nắng và chế độ mưa.
Nhiệt độ không khí trung bình xấp xỉ 270C, nhiệt độ trung bình thấp nhất từ 15 - 170C, thường xảy ra vào tháng 12, trung bình cao nhất từ 31,5 - 320C, thường gặp vào tháng 3 - 4 hàng năm.
Ẩm độ không khí cũng chênh lệch cao giữa mùa mưa và khô. Độ ẩm trung bình 79,5%. Nhưng thời điểm thấp nhất chỉ có 20%, cao nhất đạt tới xấp xỉ 100%.
Chế độ nắng khá dồi dào, trung bình 2.700 giờ/năm, từ 7- 8 giờ/ngày. Số giờ nắng trung bình nhiều nhất vào các tháng đầu mùa mưa (tháng 1,2,3), ít nắng nhất vào các tháng giữa mùa mưa (tháng 7,8,9).
Hướng gió cũng thay đổi theo mùa, với hai chế độ: chế độ gió mùa mưa và mùa khô. Vào mùa khô, gió chủ yếu thịnh hành theo hướng Đông Bắc, với tốc độ trung bình 5 - 7 m/s. Tân Trụ ít có bão, tuy nhiên đôi khi ảnh hưởng bão và áp thấp nhiệt đới, có mưa lớn xảy ra.
Nhiệt độ không khí ổn định là một ưu thế của khí hậu, thuận lợi để tăng năng suất sinh học và cây trồng nông nghiệp. Tuy nhiên, chế độ khí hậu tương phản theo mùa đã gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống con người, đặc biệt là thiếu nguồn nước ngọt trong mùa khô.
Nguồn nước: Nguồn nước mặt trên địa bàn huyện Tân Trụ khá phong phú. Hầu như Tân Trụ được bao quanh bởi hệ thống 2 con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Phía sông Vàm Cỏ Đông là 15,5 km và phiá sông Vàm Cỏ Tây là 20 km. Đồng Tháp Mười có tổng lượng trung bình hàng năm khoảng 460 tỷ m3 là nguồn cung cấp nước quan trọng cho sông Vàm Cỏ Tây về mùa khô. Ngoài ra, còn sông Nhật Tảo cùng hệ thống kênh rạch chằng chịt tạo nguồn cung cấp thêm nước mặt cho sản xuất và đời sống của con người.
Nguồn nước mưa: Do chế độ mưa phân phối không đồng đều nên thường gây ra úng cục bộ trong mùa mưa và thiếu nước ngọt trong mùa khô. Nước mưa là nguồn chủ yếu được trữ để sinh hoạt cả năm.
Nguồn nước mặn: So Tân Trụ nằm giữa hạ lưu của sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, cho nên ảnh hưởng chế độ bán nhật triều biển Đông khá mạnh. Vào mùa khô, nước mặn từ cửa Soài Rạp theo cửa sông chảy vào hệ thống kênh nội đồng làm cho quá trình nhiễm mặn xảy ra. Tuy nhiên, nguồn nước mặn cũng là một lợi thế để phát triển sinh thái ngập mặn về thuỷ sản và lâm nghiệp.
Nguồn nước ngầm: Theo tài liệu đánh giá của Liên đoàn địa chất thuỷ văn và địa chất công trình năm 1998 cho thấy:
- Các tầng chưa nước nông có chất lượng trung bình và kém, hầu như bị nhiễm phèn, không sử dụng trực tiếp được.
- Các tầng ở độ sâu 280 - 320 m có chất lượng nước trung bình và tốt có thể cung cấp cho sinh hoạt con người.
Thuỷ văn: Chế độ thuỷ văn của huyện chịu tác động mạnh của chế độ bán nhật triều của Biển Đông.
Vào mùa khô thuỷ triều đưa nước mặn từ cửa Soài Rạp vào nội đồng. Ở hệ thống sông Vàm Cỏ Tây (tại Bến Lức) có số ngày nhiễm mặn khoảng 130 - 160 ngày. Ở hệ thống sông Vàm Cỏ Tây đô mặn S 2g/lít, thường xuất hiện trễ hơn ở sông Vàm Cỏ Đông 12- 20 ngày (xuất hiện vào giữa tháng 2). Ngược lại, vào mùa mưa chế độ dòng chảy chịu tác động của lũ từ hệ thống sông Tiền tràn qua khu vực Đồng Tháp Mười gây ra úng nhiều nơi trên địa bàn.
Mực nước giữa sông Vàm Cỏ Tây và sông Vàm Cỏ Đông chênh nhau khoảng 0,15m. Lợi dụng sự chênh lệch này, vào mùa khô có thể lấy nước tự chảy từ sông Vàm Cỏ Tây vào khu vực nội đồng thuận lợi hơn phiá sông Vàm Cỏ Đông. Vào muà mưa có thể tiêu nước qua sông Vàm Cỏ Đông dễ dàng hơn phiá sông Vàm Cỏ Tây.
Địa hình và địa chất:
Địa hình của huyện Tân Trụ khá bằng phẳng, hơi nghiêng về phiá Đông, độ cao trung bình là + 0,85 m.
Địa chất của huyện thuộc loại đất phù sa mới được bồi đắp trên nền đất mềm yếu.
Di tích lịch sử văn hoá: Trên địa bàn huyện có một số di tích lịch sử như Vàm Nhật Tảo, di tích cách mạng Đám lá tối trời, kiến trúc văn hoá chợ Mỹ Bình, miếu Xã Hương.

3. Đất đai:

Diện tích toàn huyện là 10.649,6 ha.
Đất ở Tân trụ thuộc loại đất phù sa. Đất phù sa được chia làm 3 loại. Trong đó, đất phù sa đang phát triển có 4.362 ha, chiếm 41%; đất phù sa đang phát triển điển hình có 2.384 ha, chiếm 22,4%. Đất phèn có 6 loại. Trong đó, đất phèn nhẹ có 1.650 ha, chiếm 15,5%, đất phèn nhẹ nhiễm mặn có 1.200 ha, chiếm 11,3%. Đất phèn nhiễm mặn nặng có 237 ha, chiếm 2,2% diện tích.
Sử dụng đất: Tiềm năng lớn nhất của huyện Tân Trụ là đất đai. Trong đó nông nghiệp đến năm 2000 có khoảng 8.968 ha, chiếm trên 84% diện tích tự nhiên, đất ở có 506 ha, chiếm 4,8% diện tích đất tự nhiên, đất chuyên dùng khoảng 378,4 ha chiếm 3,6%.
Trong thời kỳ năm 1995 - 2000, sử dụng đất đai của huyện theo hướng tận dụng nguồn tài nguyên đất đai sẵn có vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Đất chưa sử dụng giảm dần từ 847,8 ha năm 1995 giảm xuống còn 788 ha năm 2000, tốc độ giảm bình quân 1,45/năm trong vòng 5 năm. Tỷ lệ đất chưa sử dụng trong tổng diện tích đất tự nhiên giảm từ 8,2% năm 1995 xuống còn 7,4%. Diện tích đưa vào sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng tăng lên. Đất đưa vào sản xuất nông nghiệp tăng lên 264,7 ha trong vòng 5 năm. Đất chuyên dùng bình quân tăng 2,6%/năm, trong đó đất sử dụng xây dựng và thổ cư tăng bình quân 11,1% thời kỳ 1996- 2000. Đất phát triển các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất tăng 3,85%/năm trong cùng thời kỳ. Tương ứng với tăng diện tích thuỷ lợi, diện tích nông nghiệp cũng tăng bình quân 0,6%/năm, trong đó diện tích cây lâu năm tăng 7%/năm trong cùng thời kỳ. Trong cùng thời kỳ này, diện tích đất ở tăng bình quân 1,6%/năm, trong đó diện tích đất ở nông thôn tăng 1,62%/năm và đất ở đô thị tăng 1,24%/năm.
Thực trạng sử dụng đất đai trong huyện, theo kết quả điều tra kinh tế xã hội huyện Tân Trụ năm 2000 cho thấy: đất trồng luá chiếm 94% tổng diện tích đất nông nghiệp, đất màu chiếm 1,6%, đất chăn nuôi chiếm 1,8%, đất dành cho nuôi trồng thuỷ sản chiếm 1,2%

4. Dân số và nguồn nhân lực:

- Thực trạng phát triển dân số thời kỳ 1991 - 2000:
Theo số liệu thống kê, dân số huyện Tân Trụ năm 2000 là 61,4 ngàn người, trong đó nữ 31,2 ngàn người chiếm 52% và chiếm 4,6% dân số toàn tỉnh. Mật độ dân số khoảng 564 người/km2. Dân số Tân Trụ chủ yếu cư trú vùng nông thôn với hơn 54 ngàn dân, chiếm 90% dân số huyện, dân thành thị chỉ 6,0 ngàn người, chiếm 10% dân số.
Dân số từ 15 tuổi trở lên có khoảng 35 ngàn người, chiếm gần 60% dân số toàn huyện. Đây là một nguồn lực quan trọng đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Tốc độ tăng dân số bình quân của huyện là 0,6%, là một trong những huyện có tỷ lệ tăng dân số thấp nhất (trung bình chung của tỉnh là 1,55%).
- Thực trạng lao động, việc làm thời kỳ 1991 - 2000.
Lực lượng lao động tham gia hoạt động kinh tế xã hội của huyện đến năm 2000 có khoảng 35.620 người. Trong đó, lực lượng trong độ tuổi có 31.915 người, chiếm 52% tổng dân số huyện và chiếm 90% lực lượng lao động hoạt động trong các ngành kinh tế- xã hội.
Lao động có việc làm thường xuyên khoảng 33.305 người, chiếm 93,5% lực lượng lao động toàn xã hội. Lực lượng lao động thiếu việc làm khoảng 4.863 người, chiếm 13,7% lực lượng lao động toàn xã hội. Lực lượng không có việc làm khoảng 2.315 người, chiếm 6,5% lực lượng lao động xã hội.
Cơ cấu sử dụng lao động trong các ngành nông lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng khá cao, khoảng 77,1%, các ngành công nghiệp chỉ khoảng 12,7%, các ngành dịch vụ chiếm gần 10,2%.
Điều tra lao động theo thành phần kinh tế cho thấy, chủ yếu là thành phần cá thể, chiếm gần 82%, công chức Nhà nước chiếm trên 14%, lao động trong các xí nghiệp tư nhân không đáng kể.
Tóm lại, nguồn lực của huyện Tân Trụ có nhiều tiềm năng, tuy nhiên lao động tham gia hoạt động nền kinh tế vẫn chỉ tập trung vào các ngành khu vực I là chủ yếu; trong khí đó, các ngành công nghiệp và dịch vụ chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ. Như vậy, yêu cầu đặt ra là phải chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm tăng nhanh số lượng lao động trong các ngành côngnghiệp và dịch vụ. Đồng thời tăng thu nhập, tạo việc làm để cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động.

5. Những lợi thế, hạn chế và thách thức:
Lợi thế:
- Tân Trụ có vị trí địa lý thuận lợi phát triển kinh tế xã hội, gần kề với thị xã Tân An - trung tâm kinh tế văn hoá của tỉnh, các trung tâm kinh tế lớn: thành phố Hồ Chí Minh, địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam không xa. Có tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái gắn với di tích lịch sử.
- Khí hậu ôn hoà, nguồn nước phong phú thuận lợi phát triển kinh tế toàn diện.
- Nguồn lao động dồi dào, cần cù, có kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
- Hệ thống giao thông tương đối đồng đều, thông thương giữa các ấp xã trong toàn huyện được thuận lợi và với các trung tâm kinh tế thị xã Tân An, thành phố Hồ Chí Minh và địa bàn kinh tế trọng điểm phiá Nam.
- Tiềm năng lớn nhất của Tân Trụ là đất đai, thích hợp phát triển cây luá, cây ăn quả, rau các loại, chăn nuôi và thuỷ sản. Là một trong hững huyện có đất đai màu mỡ, thuần thục, ít ngập úng, sản xuất ổn định của tỉnh Long An. Đây có thể xem như lợi thế quan trọng nhất của huyện để phát triển dự trên quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền nông nghiệp - nông thôn có điều kiện phát triển kinh tế tổng hợp.
Hạn chế và thách thức:
- Điều kiện khí hậu tuy ôn hoà, nhưng có hai mùa tương phản đã gây ra nhiều bất lợi cho sản xuất nông nghiệp. Nguồn nước ở Tân Trụ tuy dồi dào, nhưng phân bố không đồng đều theo không gian và thời gian: mùa mưa thì ngập lụt, mùa khô thì thiếu nước. Địa hình thấp trên nền đất yếu, thường ngập nước. Do vậy phải chi phí cao cho xây dựng và duy tu bảo dưỡng cơ sở hạ tầng. Nguồn tài nguyên khoáng sản chưa phát hiện được, nguồn vật liệu xây dựng hạn chế, do vậy suất đầu tư cao.
- Nguồn lao động là động lực phát triển, có số lượng lớn nhưng chất lượng còn hạn chế, trình độ lao động đào tạo có chuyên môn nghiệp vụ còn thấp. Trình độ văn hoá chung của nhân dân khá cao, song đổi mới tư duy theo cơ chế thị trường còn chậm, phương thức sản xuất kinh doanh còn mang nặng kinh nghiệm truyền thống.
- Cơ sở hạ tầng: giao thông, điện nước còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống.
- Sử dụng đất đai còn hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng đất, cơ cấu cây trồng, vật nuôi chưa thật sự phù hợp và ổn định. Chưa phát huy thế mạnh thuỷ sản và du lịch của huyện.
- Cơ cấu kinh tế còn chưa hợp lý, nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng quá cao, trong khi đó công nghiệp còn quá thấp. Đến năm 2000, cơ cấu kinh tế của huyện với khu vực I là 65,4%, khu vực II là 12,8%, khu vực III là 21,5%. Cơ cấu của tỉnh Long An tương ứng KVI là 51,0%, KVII là 20,5%, KVIII là 28,5%. Cơ cấu của cả nước tương ứng KVI là 24,3%, KVII là 39,1%, KVIII là 36,6%.
- Xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp thể hiện là: mức sống dân cư thấp, thu nhập bình quân đầu người mới đạt 4 triệu đồng năm 2000, tương đương 360 USD (Đồng bằng sông Cửu Long là USD/người/năm). Các điều kiện phúc lợi xã hội còn thấp và thiếu thốn nhiều. Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ còn hạn chế. Thị trường chưa phát triển mạnh trong khi thành phố Hồ Chí Minh có vị trí không xa lại là nơi có thị trường phát triển rất mạnh có thể lấn át thị trường của huyện. Những yếu tố trên là những thách thức rất lớn trogn quá trình phát triển của huyện, đòi hỏi phải có chính sách đúng đắn đồng bộ, bước đi phù hợp, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội cân đối trong giai đoạn tới.

6. Những quan điểm phát triển cơ bản: <span style=\'color:purple\'>
- Phát triển nguồn nội lực: Lợi thế so sánh lớn nhất của huyện Tân Trụ là nguồn nhân lục và tài nguyên đất nước còn nhiều tiềm năng lớn. do vậy, quan điểm là dựa vào các nguồn lực nội tại là chính, tranh thủ các yếu tố bên ngoài là quan trọng.
Tân Trụ là huyện nông nghiệp. Đầu tư khai thác có hiệu quả những lợi thế và tiềm năng đất đai, nông nghiệp là trọng tâm của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá phải thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm nhanh tỷ trọng nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp bằng cách phát triển các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, với qui mô vừa và nhỏ ở các vùng nông thôn.
Thế mạnh về nguồnnhân lực của huyện là dồi dào. Vì vậy, đầu tư và phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý để không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là nội dung có tính chiến lược, nhằm phát huy thế mạnh nội lực để phát triển bền vững trong những thập kỷ tới.
- Phát triển cân đối lãnh thổ: Phát triển hài hoà giữa các vùng lãnh thổ trên địa bàn huyện có ý nghĩa quan trọng để khắc phục tình trạng phân bố không đồng đều về các nguồn lực trong mỗi tiểu vùng. Vùng ''thượng'' và khu vực thị trấn có nhiều cơ hội phát triển công nghiệp động lực, cần xây dựng và hình thành các khu, cụm công nghiệp chủ đạo và mũi nhọn gắn với các khu, cụm công nghiệp của tỉnh.
- Phát triển hợp tác và cạnh tranh kinh tế: Đất đai, lao động và vị trí thuận lợi là những lợi thế, nhưng những nguồn lực đó chưa được khai thác hợp lý. Vì vậy, hợp tác với các huyện, tỉnh, địa phương khác nhằm tập trung sức người, sức của, vốn liếng, tiến bộ khoa học kỹ thuật và thị trường sẽ tạo ra sức mạnh tổng lực để khai thác các nguồn lực có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, tập trung đầu tư vào những ngành, lĩnh vực có nhiều lợi thế so sánh nhằm tăng lên sức cạnh tranh hàng hoá của hàng hoá trên thị trường trong nước và quốc tế. Cần xem như hợp tác và cạnh tranh là hai mặt của một quá trình, vừa hỗ trợ vừa bổ sung cho nhau trong một mô hình kinh tế hoàn chỉnh, đem lại hiệu quả cao.
- Phát triển kinh tế kết hợp an ninh quốc phòng: Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ và hài hoà với phát triển xã hội và an ninh quốc phòng là quan điểm đúng đắn có tầm chiến lược để phát triển ổn định và bền vững. Đặc biệt là ở những nơi có nhiều khó khăn phát triển kinh tế, nhưng lại có vị trí rất quan trọng về an ninh quốc phòng như vùng "hạ" của huyện cần được quan tâm. Vì vậy, ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển những vùng khó khăn, xây dựng các cụm dân cư phát triển mạnh về kinh tế- xã hội, vững chắc về an ninh quốc phòng trên địa bàn huyện.
- Phát triển kinh tế kết hợp với bảo vệ môi trường: Những dấu hiệu suy giảm môi trường là do khai thác tài nguyên nước không hợp lý, chế độ canh tác không phù hợp, công tác quản lý, bảo vệ môi trường thiếu chặt chẽ. Vì vậy, các phương án phát triển cần phải được cân nhắc, xem xét đồng bộ với chiến lược bảo vệ và tiến tới phát triển môi trường bền vững của huyện và toàn vùng
LeGiang is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn