View Single Post
Old 01-01-1970, 07:00 AM   #10
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 593 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default

HUYỆN THỦ THỪA</span>

Địa chỉ: Ấp Cầu Xây thị trấn Thủ Thừa huyện Thủ Thừa.
Điện thoại: 864215, Fax: 864289

1. Vị trí địa lý kinh tế :
Huyện Thủ Thừa có diện tích tự nhiên 29.901 ha, cách thị xã Tân An 10 Km và cách thành phố Hồ Chí Minh 45 km. Ranh giới hành chính huyện Thủ Thừa cụ thể như sau: Phía Bắc giáp huyện Đức Huệ, phía Đông giáp huyện Bến Lức và Tân Trụ, phía Tây giáp huyện Thạnh Hóa và tỉnh Tiền Giang, phía Nam giáp thị xã Tân An. Thủ Thừa được chia thành 2 vùng: Vùng phía Bắc gồm 7 xã:Long Thạnh, Long Thuận, Tân Thành, Mỹ Lạc, Mỹ Thạnh, Long Thành, Tân Lập thuộc vùng Đồng Tháp Mười, nằm trong vùng lũ (chiếm 75% DT toàn huyện), vùng phía Nam là các xã còn lại, ít bị ảnh hưởng của lũ. Sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ Thừa gắn liền với quá trình khai thác đất hoang, di dân xây dựng vùng kinh tế mới của tỉnh.
Trong phân vùng địa lý kinh tế của tỉnh Long An, Bắc Thủ Thừa thuộc tiểu vùng IV (gồm Thạnh Hóa, Bắc Thủ Thừa và một phần huyện Tân Thạnh). Phương hướng phát triển kinh tế chủ yếu là Nông - lâm nghiệp, mà hàng đầu là sản xuất lúa hàng hóa, trồng tràm cừ. Nam Thủ Thừa thuộc tiểu vùng V (Tân Trụ, Châu Thành, thị xã Tân An, Nam Thủ Thừa, Tây Vàm Cỏ Đông của Bến Lức). Phương hướng sản xuất chính là: sản xuất lúa cao sản và đặc sản, đa dạng hóa cây trồng trên đất lúa, phát triển mạnh chăn nuôi như : heo, gà công nghiệp và gà thả vườn, bò thịt và bò sữa.
Xét về vị trí địa lý và quá trình khai thác tài nguyên phát triển kinh tế xã hội cho thấy lợi thế cơ bản của Thủ Thừa là :
+ Thủ Thừa là cửa ngõ thông thương giữa Đông Nam bộ và ĐBSCL, nằm ở địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam, là vành đai xanh với các nông sản hàng hóa có thế mạnh như : lúa - gạo, mía đường, dưa hấu, thịt bò, heo, vịt có thể tiêu thụ thuận lợi ở vùng Đông Nam bộ, một thị trường lớn nhất Việt Nam.
+ Thông qua chương trình khai thác vùng Đồng Tháp Mười của Chính phủ nên cơ sở hạ tầng từng bước được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao đáng kể.
+ Thủ Thừa có quốc lộ IA, QL62 chạy qua, trong tương lai gần QLN2 và đường cao tốc sẽ được đầu tư xây dựng, là các trục giao thông vô cùng quan trọng trong xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, mặt khác hệ thống giao thông thủy rất thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa với TX.Tân An và TP.Hồ Chí Minh.
+ Thủ Thừa nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, vùng lan tỏa công nghiệp, do vậy đây là cơ hội để thu hút đầu tư phát triển các cụm công nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn huyện.
Ngoài những lợi thế cơ bản nêu trên, Thủ Thừa còn có một số hạn chế :
+ Bị ảnh hưởng của lũ lụt thường niên, dễ gây rủi ro cho sản xuất, hư hỏng cơ sở hạ tầng hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
+ Đất đai của Thủ Thừa chủ yếu là đất phèn ở địa hình trũng, nên điều kiện để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa sản phẩm để phá thế độc canh cây lúa cũng có phần hạn chế. Mặt khác hầu hết kênh rạch của huyện Thủ Thừa còn chịu ảnh hưởng của mặn, tập trung vào các tháng (2 - 6), vì vậy đầu vụ Hè thu thiếu nước nghiêm trọng.
+ Cơ sở hạ tầng nông thôn như : Giao thông đường bộ, nước sinh hoạt, trạm y tế, điện, trường học, các công trình phúc lợi công cộng chưa phát triển, nên hạn chế lớn đến việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.
Để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội cần thấy hết các lợi thế để khai thác, đồng thời khắc phục và giảm thiểu ảnh hưởng của các yếu tố hạn chế, tạo động lực phát triển nền kinh tế một cách ổn định và bền vững.

2. Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên :

Khí hậu huyện Thủ Thừa mang tính chất đặc trưng nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa. Nhiệt độ bình quân năm là 27,1oC, tháng 4 là tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình 28,5oC và tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 25,3oC. Biên độ nhiệt trong năm dao động khoảng 3,3oC và biên độ nhiệt ngày và đêm dao động cao (từ 8oC đến 10oC). Đây là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, đặc biệt là cây lúa, ngô, rau đậu thực phẩm.
Lượng mưa trung bình năm khá lớn (1.532 mm/năm) và phân bố theo mùa rõ rệt. Tổng lượng mưa trong mùa mưa thực sự 1.294 mm(chiếm 85% tổng lượng mưa cả năm), bắt đầu khoảng giữa tháng V và kết thúc vào cuối tháng X (kéo dài 165 ngày). Mùa mưa trùng với mùa lũ gây ngập úng, cản trở quá trình sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Nguồn nước mặt : Nguồn nước chính cung cấp cho Thủ Thừa là sông Vàm Cỏ Tây, bắt nguồn từ Campuchia chảy qua Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Thạnh Hóa rồi tới Thủ Thừa, đoạn chảy qua huyện dài 17,3 km, độ sâu trung bình 17m, rộng trung bình 300m. Sông Vàm Cỏ Tây được tiếp nước từ sông Tiền qua hệ thống kênh Hồng Ngự, Dương Văn Dương, lưu lượng mùa kiệt 93 m3/s, mùa lũ 580 m3/s, góp phần quan trọng trong việc cung cấp nước ngọt cho sản xuất nông nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của người dân. Ngoài ra hệ thống kênh Thủ Thừa, kênh Bo Bo cũng là nguồn cung cấp nước quan trọng cho sản xuất và đời sống của người dân huyện Thủ Thừa.
+ Để phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội, những năm qua bằng nhiều nguồn vốn (TW, tỉnh, huyện , xã và nhân dân) đã xây dựng hệ thống thủy lợi: dẫn ngọt, tiêu úng, xổ phèn, thoát lũ… (tập trung vào giai đoạn 1987 - 1995).
+ Chính nhờ có thủy lợi mà việc khai hoang, phục hóa, thâm canh sản xuất lúa, tăng vụ đạt kết quả cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu phục vụ sản xuất và sinh hoạt thì nguồn nước vẫn chưa đủ, vì vậy thủy lợi vẫn là vấn đề then chốt đối với Thủ Thừa, cần được đầu tư hoàn chỉnh tạo nền tảng cho sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững.
Nguồn nước ngầm : Đặc điểm nổi bật về nguồn nước ngầm trong khu vực huyện Thủ Thừa là xuất hiện sâu, giá thành khai thác cao, nên chưa khai thác được nhiều.
Trong khu vực huyện Thủ Thừa nước mạch nông xuất hiện ở độ sâu 30 - 40 mét, nhưng do ảnh hưởng của phèn nên chất lượng không tốt, khả năng sử dụng cho sinh hoạt bị hạn chế. Hơn nữa, tại Thủ Thừa nước ngầm có hàm lượng tổng độ khoáng hóa rất thấp (1-3g/l) và PH<4, nên việc sử dụng nước ngầm ở độ sâu <40 m để sinh hoạt rất hạn chế. Nước ngầm có khả năng khai thác ở độ sâu 260 - 290 m, trữ lượng 450m3 ngày đêm/giếng, lưu lượng nước 05 lít/s và chất lượng tốt.
Nhìn chung lưu lượng khá lớn, nhưng khả năng cung cấp đủ nước cho đời sống sinh hoạt của người dân và sản xuất công nghiệp rất hạn chế vì nước ngầm ở tầng sâu giá thành khai thác cao.
Hiện nay, nước sinh hoạt của nhân dân trong huyện sử dụng nhiều nguồn: nước ngầm, nước mưa, lọc lắng nước sông (các xã phía Bắc), các xã phía Nam có điều kiện khai thác nước ngầm hơn, chất lượng nước tốt hơn. Nước ngầm được khai thác ởù một số điểm tập trung do nhà nước đầu tư, riêng một số xã vùng sâu như Long Thạnh, Long Thuận, Mỹ Lạc đã có sự phối hợp tốt phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, xã hội hóa cấp nước sinh hoạt.
Chế độ thủy văn :
Thủ Thừa chịu ảnh hưởng của thủy triều Biển Đông theo chế độ bán nhật triều không đều, có 2 đỉnh và chân triều, song biến động không đều theo tháng. Đỉnh triều lớn nhất vào tháng 12, nhỏ nhất vào tháng 4, 5; biên độ triều trung bình mùa kiệt: 0,75 - 0,85m, mùa lũ 0,45 - 0,60m. Do vậy, vào mùa khô có thể lợi dụng thủy triều để tưới tiêu tự chảy.
Ngập lũ :
Ngập lũ là quy luật thường niên của ĐBSCL, trong đó Thủ Thừa được xếp vào huyện chịu ảnh hưởng ngập nông. Lũ lớn đang có xu thế rút ngắn chu kỳ từ 12 năm xuống còn 6 năm và 3 năm (1961, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996, 2000) trong đó lũ năm 2000 đã gây thiệt hại khá lớn cho Thủ Thừa. Tuy nhiên lũ mang đến lượng phù sa đáng kể tăng thêm màu mở cho ruộng đồng, thau chua rữa phèn, tăng nguồn lợi thủy sản, vệ sinh môi trường.
+ Ảnh hưởng của phèn - chua: Theo dõi diễn biến của phèn - chua trên các sông, kênh rạch cho thấy Thủ Thừa bị ảnh hưởng khá nặng. Thời điểm nước trên kênh rạch bị chua là khoảng 10 ngày sau khi bắt đầu mưa, vấn đề chua có thể giải quyết nhanh chóng khi đầu tư hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi.
+ Ảnh hưởng mặn: Hầu hết sông, kênh rạch trên địa bàn Thủ Thừa bị nhiễm mặn từ tháng 2 đến tháng 6, nên cuối vụ Đông Xuân và đầu vụ Hè Thu thiếu nước trầm trọng. Chính vì vậy cần sớm hoàn chỉnh đê bao lửng để giữ ngọt, ngăn mặn.

3. Tài nguyên:

Đất : Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỷ lệ 1/25.000 do Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường và khoa trồng trọt đại học Cần Thơ xây dựng cho thấy Thủ Thừa có 3 nhóm đất với 12 đơn vị chú giải bản đồ đất; trong đó, nhóm đất phù sa có 3.651 ha (chiếm 12,2% DTTN) và nhóm đất phèn tiềm tàng: 5.209 ha (chiếm 17,4% DTTN), nhóm đất phèn hoạt động 20.055 ha (chiếm 67,1% DTTN).
Nhóm đất phù sa: Có 3 chú giải bản đồ, với diện tích 3.651 ha phân bố dọc theo sông Vàm Cỏ Tây, chủ yếu ở các xã Long Thuận, Long Thạnh. Thành phần cơ giới nặng, độ phì nhiêu khá, đây là loại đất thích hợp cho trồng 2 vụ lúa.
Nhóm đất phèn : (Là nhóm đất chính chiếm 84,5% DTTN toàn huyện).
Nhóm đất phèn có diện tích :25.264 ha, chiếm 84,5% DTTN. Đất phèn có trị số pH thấp và hàm lượng SO4-- cao ( 0,15 - 0,25%), đặc biệt là các ion Fe++ và Al+++ dễ gây độc hại cho cây trồng. Vấn đề sử dụng đất phèn trong sản xuất nông nghiệp ở Đồng Tháp Mười nói chung và huyện Thủ Thừa nói riêng phụ thuộc vào khả năng cung cấp nước ngọt trong mùa khô. Đất phèn phân bố ở hầu hết các xã phía Bắc kênh Thủ Thừa, đất có hàm lượng mùn cao, nếu giải quyết tốt vấn đề thủy lợi thì canh tác lúa đạt năng suất cao.
Đất đai của huyện Thủ Thừa xếp ở cấp ít thích nghi hoặc phải cải tạo mới thích nghi với 2 vụ lúa, 1 lúa -1 màu, lúa - đay, mía, đậu đỗ nên cây trồng sinh trưởng phát triển cho năng suất thấp hơn các vùng đất tốt (đất phù sa). Vì vậy, đây cũng là một hạn chế trong sản xuất nông nghiệp. Dưới đây là tổng hợp diện tích các loại đất theo nhóm trên địa bàn huyện :
Địa chất : Đất đai của huyện Thủ Thừa hình thành từ hai loại trầm tích : (i) Trầm tích phù sa non trẻ Holocene và trầm tích cổ (ii) Pleistocene; trong đó chủ yếu là trầm tích phù sa non trẻ Holocene có chứa vật liệu sinh phèn.
- Trầm tích Holocene bao phủ khoảng 82,9% DTTN của huyện, nó phủ trùm lên trầm tích phù sa cổ. Đặc trưng cơ bản của đơn vị trầm tích này là sự có mặt của Sulfidic, vật liệu chủ yếu hình thành đất phèn. Trầm tích không phân chia khoảng 4,5% DTTN.
Do vậy, khi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cần tính toán đầu tư đảm bảo độ ổn định bền vững.
Tài nguyên rừng : Năm 1995 có 478 ha rừng, trong đó hầu hết là tràm cừ ; đến năm 2002 diện tích rừng tăng lên 2.504 ha (tỷ lệ che phủ 10,6%) kể cả cây lâu năm, theo số liệu thống kê đất đai đến 1/10/2003 diện tích rừng là 4.466 ha, trữ lượng khá.
Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 773/TTg và 661/TTg, đã góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.
Tài nguyên khoáng sản :
Theo các tài liệu điều tra địa chất thổ nhưỡng, trên địa bàn huyện Thủ Thừa, chưa cho thấy có loại khoáng sản đặc trưng nào.

4. Dân số và lao động :
Dân số trung bình năm 2002 là 86.595 người, mật độ dân số 290 người/km2, tương đương mức trung bình mật độ dân số của tỉnh Long An (294 người/km2). Dân số thành thị có 15.248 người (chiếm 17,6% dân số), dân số nông thôn 71.347 người (chiếm 82,4%), tốc độ tăng dân số bình quân 1,56%/năm (2002).
Nhân dân huyện Thủ Thừa có truyền thống cách mạng kiên cường, cần cù chịu khó lao động, song trình độ học vấn và chuyên môn thấp, tập trung chủ yếu ở nông thôn. Mật độ dân số bình quân 290 người/km2 (tỉnh Long An 294 người/km2). Từng bước ổn định đời sống dân cư , nhất là các xã vùng sâu bằng các biện pháp mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng cụm và tuyến dân cư, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Tổng số lao động toàn huyện năm 2002 la: 47.627 người; trong đó, nông - lâm nghiệp 35.800 người (chiếm 75,2%), công nghiệp - xây dựng 4.760 người (chiếm 10%) và thương mại - dịch vụ 5.867 người (chiếm 12,3%), lao động khác 1.200 người chiếm 2,5%. Như vậy, nguồn nhân lực tập trung chủ yếu cho nông - lâm nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành diễn ra chậm.
Nguồn nhân lực ở huyện Thủ Thừa có chất lượng thấp, đây là một nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế vì nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất. Lao động có chuyên môn kỹ thuật (đã qua đào tạo) là 1.489 người (chiếm 3,1% lao động xã hội); trong đó, đại học và trên ĐH 325 người, cao đẳng 344 người, trung cấp 820 người. Nếu kể cả trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật ước khoảng 2,6% thì tổng số lao động được đào tạo là 5,7%, chủ yếu ở khu vực quản lý nhà nước, giáo dục, y tế. Do vậy, đây là một hạn chế của Thủ Thừa.

5. Quan điểm định hướng phát triển huyện Thủ Thừa nhằm khai thác hợp lý các lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên đất, nguồn nước, mở rộng sản xuất, lấy hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống làm tiêu chuẩn phát triển. Phát triển sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ, chú trọng vào những ngành, những địa bàn hội đủ các yếu tố phát triển, nhất là nông nghiệp chất lượng cao, công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp.
- Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trên địa bàn huyện, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và hiệu quả, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, thương mại và dịch vụ, từng bước phát triển công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến nông sản .
- Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mặt bằng dân trí, đảm bảo quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 18 của Tỉnh ủy Long An.
- Mở rộng sản xuất đi đôi với bảo vệ và gìn giữ môi trường sinh thái, ngăn chặn mọi nguy cơ gây ô nhiễm, bảo đảm tính bền vững cho nền kinh tế.
- Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với quốc phòng an ninh, giữ vững ỗn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

6. Mục tiêu phát triển :<span style=\'color:purple\'>
Mục tiêu chung là xây dựng Thủ Thừa trở thành huyện có kinh tế phát triển, xã hội công bằng, văn minh, đảm bảo vững chắc về quốc phòng an ninh, gia tăng phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, từng bước công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
- Nhanh chóng thoát khỏi nền kinh tế thuần nông, sớm tạo nên sự phát triển cân đối, toàn diện, phát huy các thế mạnh của huyện nhất là nông lâm nghiệp, đẩy nhanh sự phát triển công nghiệp – TTCN, thương mại dịch vụ.
Mục tiêu cụ thể : Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2003 - 2010 là 10%/năm, trong đó giai đoạn 2003 - 2005 là 9%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 là 10,6%/năm.
- Cơ cấu kinh tế: Tăng nhanh tỷ trọng thương mại - dịch vụ và công nghiệp để cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng Nông lâm nghiệp - Công nghiệp TTCN - Thương mại dịch vụ. Cụ thể đến năm 2010 khu vực nông lâm nghiệp chiếm 37,8%, công nghiệp - xây dựng 31,9%, thương mại - dịch vu 30,3%.
- GDP (theo giá thực tế) bình quân đầu người năm 2005 là 6,2 triệu đồng, tương đương 400 USD và đến năm 2010 là 11 triệu đồng, tương đương 710 USD.
- Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách năm 2005 là 3%/năm và năm 2010 là 4,0%/năm ( năm 2002 là 2,8% ).
- Giảm tỷ lệ tăng dân số xuống 1,4% vào năm 2005 và còn 1,3% năm 2010.
- Năm 2005 giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 5% và năm 2010 còn 3%.
- Phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở vào năm 2005.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện năm 2005 là 90,0% và năm 2010 là 100%.
- Tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch năm 2005 là 85% (khu vực đô thị: 95%) và năm 2010 là 100%.
LeGiang is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn