Go Back   Cựu Học Sinh Lê Quý Đôn - Long An > :: Câu Lạc Bộ :: > ..:: Các CLB khác ::.. > CLB Tâm linh

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ - Tây Du ký

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ - Tây Du ký

this thread has 16 replies and has been viewed 68199 times

Gởi Ðề Tài Mới Ðề tài đã khoá
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
Old 06-07-2007, 10:36 PM   #1
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 595 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ - Tây Du ký

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ


Trích:
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]

[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
MỤC LỤC
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
1. Nước A Kỳ Ni
2. Nước Quật Chi
3. Nước Phạt Lục Già
4. Nước Xích Kiến
5. Nước Giã Thời
6. Nước Phế Hãn
7. Nước Tốt Đỗ Lợi Sắc Na
8. Nước Phong Mạc Kiến
9. Nước Nhi Chư Hạ
10. Nước Kiếp Bố Xương Na
11. Nước Quật Tương Nhi Ca
12. Nước Yết Hãn
13. Nước Bổ Yết
14. Nước Đại Địa
15. Nước Hóa Lợi Tập Di Dà
16. Nước Yết Tương Na
17. Nước Đãn Mật
18. Nước Diệt Ngạc Hạnh Na
19. Nước Nhẫn Lộ Ma
20. Nước Dụ Mạn
21. Nước Cúc Hòa Hằng Na
22. Nước Hoạch Sa
23. Nước Khả Xuất La
24. Nước Câu Mễ Đã
25. Nước Phược Già Lãng
26. Nước Ngật Lộ Tất Ni Kiến
27. Nước Nhẫn Lẩm
28. Nước Phược Yết
29. Nước Duệ Mạt Da
30. Nước Hồ Thật Kiến
31. Nước Đản Sắc Kiến
32. Nước Yết Thức
33. Nước Phạm Hành Na
34. Nước Ca Tất Thí
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
1. Nước Lam Bà
2. Nước Na Yết La Yết
3. Nước Càn Đà La
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
1. Nước Ô Trượng Na
2. Nước Bát Lộ La
3. Nước Đản Hựu Thỉ La
4. Nước Tân Ha Bổ La
5. Nước Ô Sách Thi
6. Nước Ca Thấp Di La.
7. Nước Bán Nô Sai
8. Nước Yết Na Phược Bổ La
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
1. Nước Trách Ca
2. Nước Chí Na Bộc Đệ
3. Nước Phiệt Lan Đạt La
4. Nước Quật Lộ Đa
5. Nước Thiết Đa Đồ Lô
6. Nước Ba Lý Dạ Đản La
7. Nước Vị Thố La
8. Nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La
9. Nước Tốt Lục Cần Na
10. Nước Châu Đệ Bổ La
11. Nước Bàng La Hấp Ma Phổ La
12. Nước Cù Tỳ Sương Na
13. Nước Ác Ê Chế Đản La
14. Nước Tỳ La Sắc Na
15. Nước Kiếp Tỷ Tha.
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
1. Nước Yết Nhã Cúc Xà (Kanjakubja)
2. Nước A Du Đà
3. Nước A Dà Mục Khứ
4. Nước Bát La Dà Dà
5. Nước Kiều Thường Di
6. Nước Bi Tác Ca
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
1. Nước Thất La Phiệt Tất Để
2. Nước Kiết Tỷ La Phạt Tốt Đổ
3. Nước Lam Ma
4. Nước Câu Thi Na Yết La
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
1. Nước Ba La Nại
2. Nước Chiến Chủ
3. Nước Phệ Xá Phân (Tỳ Xá Ly - Vesali)
4. Nước Phất Phiêu Trì
5. Nước Ni Ba La
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
Nước Ma Kiệt Đà - Phần một
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
Nước Ma Kiệt Đà - Phần hai
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
1. Nước Y Lan Nõa Bát Phạt Dà
2. Nước Chiêm Ba
3. Nước Yết Châu Ôn Đệ La
4. Nước Bôn Na Phạt Đản Na
5. Nước Ca Ma Lầu Ba
6. Nước Tam Ma Đản Thát
7. Nước Trầm Ma Phiêu Đệ
8. Nước Yết La Noa Tô Phạt Sắc Na
9. Nước Ô Trà
10. Nước Cung Ngự Đà
11. Nước Yết Lăng Già
12. Nước Kiều Tát La
13. Nước Án Đạt La
14. Nước Đà Na Yết Lân Ca
15. Nước Châu Lợi Da
16. Nước Đạt La Tỳ Trà
17. Nước Chư La Cự Thác
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
1. Nước Tăng Già La (Tích Lan)
2. Nước Trà Kiến Na Bổ La
3. Nước Ma Ha Sách Trạch
4. Nước Phạt Lục Yết Chiêm Ba
5. Nước Ma Lạp Ba
6. Nước A Thác Lý
7. Nước Khiết Thác
8. Nước Phạt Lạp Tỳ
9. Nước A Nan Đà Bổ La
10. Nước Tô Sắc Đà
11. Nước Cù Chiết La
12. Nước Ô Phiệt Diễn Na
13. Nước Trinh Chỉ Đà
14. Nước Ma Ê Thấp Phạt La Bổ Đa
15. Nước Tín Độ
16. Nước Mậu La Tam Bộ Lô
17. Nước Bát Phạt Đa
18. Nước A Điểm Ba Sí La
19. Nước Lang Yết La
20. Nước Ba Sắc Tư (Ba Tư)
21. Nước Kiên Đa Thế La
22. Nước A Quân Trà
23. Nước Phạt Sắc Noa
[Đăng nhập để xem liên kết. ]
1. Nước Tào Cự Thác
2. Nước Phất Phiêu Trì Tát Quân Na
3. Nước An Đản La Phược
4. Nước Hoạt Tất Đa
5. Nước Hoạt
6. Nước Tào Kiến
7. Nước A Lợi Ni
8. Nước Yết La Hồ
9. Nước Ngật Phiêu Sắc Ma
10. Nước Bát Lợi Yết
11. Nước Tu Ma Đản La
12. Nước Bát Thích Sán Na
13. Nước Nhâm Bạ Kiến
14. Nước Quật Nãn Noa
15. Nước Đạt Ma Tất Thiết Đế
16. Nước Thi Khí Ni
17. Nước Thương Di
18. Nước Yết Bàn Đà
19. Nước Ô Sát
20. Nước Khư Sa
21. Nước Nghiên Cẩu Da
22. Nước Cù Tác Đản Na

thay đổi nội dung bởi: LeGiang, 07-07-2007 lúc 12:03 AM.
LeGiang is offline  
Đã có 2 thành viên gửi lời cám ơn đến LeGiang vì bạn đã đăng bài:
mapedGaw (14-05-2017), uwbvunny12 (09-01-2015)
Old 06-07-2007, 10:39 PM   #2
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 595 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default Lời tựa

Lời tựa

Quý vị đang cầm trên tay quyển "Đại Đường Tây Vức Ký" được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây.
Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường).
Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp.
Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch.
Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v...Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, Cố Hòa Thượng Thích Trung Quán, Cố Hòa Thượng Thích Đức Niệm, Cố Thượng Tọa Thích Viên Đức, Cố Sư Bà Thích Nữ Như Thanh, Cố Sư Bà Thích Nữ Diệu Không v.v... đã đóng góp phần mình không nhỏ cho vấn đề phiên dịch từng loại như thế. Riêng phần Kinh Tạng Pali do Hòa Thượng Thích Minh Châu đã dịch gần xong tất cả Kinh Văn. Phần Luật và Luận do Chư Tôn Đức Trưởng Lão thuộc Phật Giáo Nguyên Thủy phiên dịch. Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh người chủ trương một Đại Tạng Kinh Việt Nam đã đang và sẽ cho Tăng Ni phiên dịch những phần còn lại, rồi san định trước sau để hình thành. Hiện nay Hòa Thượng đã cho xuất bản được 10 bộ. Một bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam được hình thành trọn vẹn, chắc phải 200 bộ như thế, mỗi bộ dày chừng 1000 đến 2000 trang.
Riêng bộ "Đại Đường Tây Vức Ký" nầy sở dĩ chúng tôi dịch trước vì nghĩ rằng chính đây là tấm bản đồ đầy đủ nhất, chi ly nhất mà đương thời từ năm 628 đến năm 645 tại Ấn Độ và Trung Hoa chưa có một người nào viết được một bộ Sử Phật Giáo như thế. Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật cũng như chư vị Bồ Tát, A La Hán. Số nước mà Ngài đã đi qua là 110, ngày nay chúng ta có thể gọi là những tiểu bang, vì ngày xưa mỗi một vùng có một ông Vua nhỏ, hoặc tù trưởng đứng đầu. Còn ngày nay, Ấn Độ chỉ còn một nước mà thôi. Chung quanh đó có một số nước, ngoài Ấn Độ như Ba Tư, Kasmir, Tân Cương v.v... là những nước lớn ta có thể kể riêng. nhưng tựu chung chỉ đi bộ và dùng voi ngựa mà vượt qua được những chặng đường dài gần 50 ngàn dặm ấy thì quả thật thế gian nầy chỉ có một không hai.
Nhờ bản đồ hành hương của Ngài qua truyện Đại Đường Tây Vức Ký nầy mà những nhà Học giả, những nhà Khảo Cổ Học người Âu Châu mới tìm đến Ấn Độ để xác nhận, tìm kiếm những di tích ấy vào cuối thế kỷ thứ 18 và cho đến nay thì bốn Thánh Địa căn bản của đức Phật từ khi Đản Sinh cho đến khi Thành Đạo, Thuyết Pháp lần đầu tiên và thị tịch Đại Bát Niết Bàn đã rõ ràng. Bây giờ các nhà Khảo Cổ Học người Nhật Bản vẫn còn đang tiếp tục tìm kiếm các di tích cũ ngày xưa cách đây 2547 năm về trước. Tất cả đều nhờ vào công đức của Ngài Huyền Trang đã vẽ cho chúng ta một tấm bản đồ cách đây 1375 năm (2003-628, là năm mà Ngài Huyền Trang 33 tuổi bắt đầu sang Ấn Độ); đây là một tấm bản đồ cũ nhất trong tất cả những tấm bản đồ của thế giới hiện nay.
Đại Đường Tây Vức Ký nầy đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga; và tiếng Việt hình như đây là bản đầu tiên. Vì cho đến nay, chúng tôi vẫn chưa đọc được một bản nào mô tả tỉ mĩ như thế. Gần đây chúng tôi có đọc được quyển "Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh" của nhà văn Võ Đình Cường tái bản lần thứ 3 năm 2000 thì mới biết ngày 7 tháng 5 năm 1960, ông đã cho xuất bản cuốn "Huyền Trang", nhưng lúc ấy tại quê nhà tôi chưa có cơ duyên đọc đến. Căn cứ theo lời tựa lần thứ nhất xuất bản vào năm 1960, được biết rằng nhà văn Võ Đình Cường dùng tài liệu của Học giả Lương Khải Siêu người Trung Hoa soạn và nhờ Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ dịch tài liệu ấy ra tiếng Việt; nhưng phần mình, nhà văn không cho biết ông đã căn cứ vào tài liệu nào để viết. Dĩ nhiên phải có tài liệu chính trong tay, ông mới hoàn thành tác phẩm ấy được. Vì đây là một nhân vật lịch sử chứ không phải Dã sử hoặc Huyền sử, cho nên chúng ta phải làm sáng danh điều nầy.
Nhân nghiên cứu để viết lời tựa cho quyển sách quan trọng nầy, chúng tôi mới thấy bài dịch của lời tựa Vua Đường Thái Tông đã viết vào năm 648 gồm 780 chữ mà Ngài Trí Thủ và Ngài Thiện Siêu đã dịch ra tiếng Việt thật tuyệt vời. Nay chúng tôi xin trích đăng lại cho đủ ba lời tựa cho phần đầu của dịch phẩm nầy.
Trong chương 5, phần XVI về việc phiên dịch Kinh Điển, nhà văn Võ Đình Cường viết như sau:
"Mùa thu năm sau, phụng mệnh Vua Thái Tông, Ngài thuật cho một đệ tử là Biện Cơ chép lại cuộc Tây Du của Ngài trong 17 năm trải qua 138 nước một cách tường tận..."
Ở đây có thể phân tích một vài việc như sau: Có một điều chúng tôi thắc mắc là: "Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch" quyển nầy. Tại sao Ngài phải dịch? Lẽ ra phải nói là Ngài soạn mới đúng. Khi viết lại chắc Ngài phải viết bằng chữ Hán, nghĩa là đi đến đâu ngài chép đến đó. Chứ sau 17 năm về lại Trung Quốc làm sao nhớ hết mà kể lại cho ngài Biện Cơ soạn lại? Và một điều khó hiểu nữa - Không lẽ Ngài viết bằng chữ Phạn? - Chắc chắn là không. Vì tiếng mẹ đẻ của Ngài là tiếng Trung Hoa, khi qua đó Ngài đã 33 tuổi, trong khi tiếng Phạn chưa giỏi thì phải lấy tiếng mẹ đẻ làm chuẩn vậy.
Thứ nữa ở trong Đại Tạng Kinh, Phần tựa thứ nhất cho biết Ngài đã đi 110 nước; trong khi đó ông Võ Đình Cường bảo đi đến 138 nước; và ngay cả trong lời tựa thứ 2 trong Đại Đường Tây Vức Ký của Thượng Thơ Tả Bộc Xạ Yến Quốc Công Trương Thuyết có ghi là: Lời tựa của Tam Tạng Thánh Giáo do Vua Đường Thái Tông viết chỉ có 780 chữ" mà ông Võ đã viết là 781 chữ. Điều đó cũng dễ hiểu thôi vì ông cũng có nhận định rằng: "Ông Lương Khải Siêu bảo rằng Ngài Huyền Trang sang Ấn Độ năm Trinh Quán nguyên niên là sai" và ông đã chứng minh là năm Trinh Quán thứ ba mới đúng. Điều chứng minh nầy của ông Võ đúng với Đại Tạng Kinh.
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) là Đại Tạng Kinh được hoàn thành dưới thời Vua Đại Chánh (Taisho). Vua nầy là con của Vua Minh Trị Thiên Hoàng (Meiji Tenno). Vua Minh Trị đã có công duy tân đất nước Nhật vào năm 1868 cách đây 135 năm (2003-1868) và sau khi Minh Trị Thiên Hoàng băng hà, Vua Đại Chánh lên ngôi. Ông Vua nầy trị vì không lâu; nhưng được một việc dưới thời ông Tam Tạng Kinh Điển bằng chữ Hán đã được sưu tập chỉnh lý và đóng lại thành bộ, để ngày hôm nay tại Trung Hoa, Đại Hàn, Việt Nam, Mỹ Quốc, có cơ hội căn cứ vào đó mà dịch thuật nghiên cứu. Vào thời ấy, năm 1923 đến năm 1933 ( Đại Chánh năm 13 đến năm Chiêu Hòa thứ 7), Vua cho triệu tập 100 Học giả Tăng Sĩ và Cư Sĩ toàn là những vị đỗ Tiến Sĩ có trình độ Phật học thâm sâu kết thành bộ Đại Tạng Kinh nầy.
Chúng ta biết rằng bản Đại Đường Tây Vức Ký nầy y cứ vào bản Đại Đường Tây Vức Ký của Kinh Đô Đế Quốc Đại Học (Kyoto Teikoku Daigakku) soạn ở trang 867 quyển 51. Như vậy đây là một tài liệu đáng tin cậy. Vì lẽ tài liệu từ Đại Học soạn dịch và dạy cho sinh viên ở Nhật phải nói là hoàn chỉnh hơn những tài liệu khác. Dĩ nhiên không phải là hoàn toàn đúng hết; nhưng tài liệu ấy ta có thể y cứ được.
Đại Đường Tây Vức Ký được soạn từ năm 646, như vậy cách nay đã 1357 năm (2003-646) mà văn thời đó là cổ văn và dĩ nhiên những triều Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều có sửa đổi lại cho hợp với câu văn của thời đại, để người sau đọc dễ hiểu hơn. Rồi đến thời Đại Chánh của Nhật Bản, tức hơn 1200 năm về sau, Đại Tạng Kinh nầy mới được hình thành tại Nhật và dĩ nhiên là đã được những học giả Nhật Bản san định lại một lần nữa theo sự hiểu biết của người Nhật qua tác phẩm Hán Văn trên. Rồi đến bây giờ 2003 đã hơn 100 năm như thế, ngay cả người Trung Hoa trong hiện tại, nếu không có học Phật và không rành cổ ngữ mà xem vào cũng giống như lội vào rừng chẳng có lối ra. Nghĩa là có thể đọc, chứ phần hiểu biết thì rất ít. Còn phần chúng tôi cố gắng dịch sát từng chữ để cho đúng ý của tác giả; nhưng chắc chắn là phạm rất nhiều sai lầm. Lý do là thời gian quá lâu đã hơn 1300 năm, tác phẩm nầy mới dịch sang Việt ngữ và đã trải qua nhiều lần san định; nên chắc rằng vấp phải nhiều điều ngoài ý muốn.
Chúng tôi được một điều là biết thêm tiếng Nhật, cho nên việc tra cứu có phần dễ hơn một ít. Riêng chữ Hán nào không rõ thì phải tra tự điển cùng với Thầy Đồng Văn để làm cho rõ nghĩa, trước khi dịch. Thầy Đồng Văn biết nhiều chữ Hán và đã tốt nghiệp Tiến Sĩ Phật Học ở Ấn Độ năm 2001 tại Đại Học New Delhi nên những phong tục tập quán và địa danh Thầy ấy tương đối rành rẽ.
Sau khi dịch xong, chúng tôi trao qua Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, bào huynh của tôi cũng đã tốt nghiệp Đại Học Phật Giáo Thiền Tào Động (Komazawa) tại Nhật để xem lại cho thật kỹ một lần nữa, trước khi cho in thành sách. Cho nên có thể tin tưởng thêm một phần lớn của dịch phẩm nầy. Thêm vào đó, Hạnh Giới là đệ tử xuất gia của tôi cũng mới vừa tốt nghiệp Tiến Sĩ Triết Học về Tôn Giáo và Ngôn Ngữ Học tại Đại Học Hannover, Đức Quốc cũng đã phụ lực trong việc đánh máy, tham cứu bài vở trong khi dịch để dịch phẩm nầy được thành hình. Dịch phẩm nầy được thành tựu cũng không thiếu phần đóng góp của Thầy Tông Nghiêm, người Mã Lai, Cao Học Phật Học, và chú Hạnh Tuệ, thị giả đã trợ lực cho Sư Phụ trong việc dịch thuật, vốn là điều cần trì chí mà sức khỏe con người có giới hạn, phải đầy đủ thời gian cũng như hoàn cảnh xung quanh tốt thì mới hoàn thành được dịch phẩm nầy.
Khi đọc sách, quý vị sẽ gặp những danh từ của nước, của địa danh, đôi khi khó đọc hoặc sai khác với nhiều bản, chẳng qua đó là do sự phát âm sang tiếng Trung Hoa, chỉ tựa tựa với tiếng gốc chứ không hẳn là hoàn toàn đúng. Ví dụ ngày xưa chúng ta phiên âm chữ Hán khi đọc tên Montesqieu là Mạnh Đức Tử Kiêu, thì người Pháp đọc chắc họ cũng chẳng hiểu là ông nào vậy; nhưng đó là một cái lệ mà người Trung Hoa và người Nhật, người Đại Hàn vì muốn đọc được hết các tên địa phương, tên người của quốc gia đó; nên đã phiên âm ra như vậy, để ai cũng có thể đọc được. Phần nầy, người Việt Nam chúng ta có thể tiến bộ hơn vì đã để nguyên nguyên âm danh từ nước hay nhân vật của nước ấy để đọc thì quả là tiện lợi vô cùng.
Lúc đầu khi đọc đến chữ "Tốt Đổ Ba" chúng tôi chẳng biết là nghĩa gì; nhưng sau mới biết là Ngài phiên âm chữ Stupa có nghĩa là Tháp hay Bảo Tháp. Nếu dịch thẳng ra tiếng Hán là Phù Đồ. Hoặc chữ "Đỗ Lợi Đa" nghĩa là Tushita cung trời Đẩu Suất. Hay chữ "Tu Đa La" có nghĩa là Sutra là Kinh tạng. Nếu không hiểu danh từ Phật Học khi gặp những chỗ nầy thật khó mà giải quyết.
Quý độc giả sẽ không tìm được Trư Bát Giới, Tôn Hành Giả, Sa Tăng và con Bạch Mã trong tác phẩm nầy như Ngô Thừa Ân đã giới thiệu qua tác phẩm Tây Du Ký mà ngày nay người ta đã đóng thành phim, ai xem cũng thích ba nhân vật kia hơn là Đường Tam Tạng; nhưng thật ra Đường Tam Tạng mới là vai chính trong khi đi thỉnh kinh như thế. Dĩ nhiên trên đường đi Ngài cũng đã gặp những nước chỉ toàn là đàn bà không có đàn ông, qua sa mạc, qua sông Tín Độ chảy xiết, voi bị sụp nước, kinh bị ướt mất, qua núi Thống Lĩnh lạnh buốt v.v...nhưng không có những yêu quái xuất hiện quá nhiều như trong Tây Du Ký đã mê hoặc độc giả.
Những điều muốn nói, chúng tôi đã bộc bạch hết rồi. Mong rằng quý độc giả khi đi sâu vào nội dung của câu chuyện sẽ học hỏi được nhiều hơn. Tiện đây chúng tôi cũng xin phép tác giả họ Võ của quyển "Huyền Trang" và quyển "Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh" cho in lại bài dịch ra tiếng Việt về lời tựa của Đại Đường Tam Tạng Thánh Giáo của Vua Đường Thái Tông mà Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ và Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu đã dịch năm 1960 để độc giả lãm tường.
Cuối cùng đại chúng tại Tu Viện Đa Bảo gồm năm người đến từ Đức đã ở đây gần ba tháng dưới sự chăm sóc của Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thầy Phổ Huân cũng như quý cô và quý Phật Tử chùa Pháp Bảo ở Sydney; xin đa tạ thâm ân đó. Nếu không có sự trợ duyên nầy thì phần nhập thất, dịch Kinh và tu học khó thành tựu được.
Dịch Kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước đều hồi hướng
Khắp nguyện chúng sanh trong Pháp Giới
Đều được vãng sanh về Cực Lạc Viết xong ngày 15 tháng 12 năm 2003 D.L.
tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi
nhân mùa nhập thất.
Thích Như Điển
LeGiang is offline  
Đã có 3 thành viên gửi lời cám ơn đến LeGiang vì bạn đã đăng bài:
JosephDora (29-11-2014), MinnieRiz (12-10-2022), WillieGync (18-12-2014)
Old 06-07-2007, 10:40 PM   #3
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 595 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default Đại Đường Tam Tạng Thánh Giáo của Vua Đường Thái Tông

Bài tựa
Đại Đường Tam Tạng Thánh Giáo của Vua Đường Thái Tông

Trộm nghe rằng: "Trời đất có Tượng, chở che đã tỏ rạng đức Hàm Sinh; đông hạ vô hình, mưa nắng vốn âm thầm hóa vật. Bởi thế ngắm trời trông đất, kẻ dung ngu cũng so biết mối manh; thông âm rõ dương, bậc hiền triết thật khó cùng đầu số. Song le, trời đất bao hàm âm dương mà dễ biết là nhờ có tượng; âm dương ở trong trời đất mà khó cùng là bởi không hình. Cho biết: Tượng kia bày rõ đành rành, dù ngu cũng chẳng hoặc; hình nọ kín che mờ mịt, dẫu trí vẫn còn mê. Huống nữa, Phật đạo hư truyền, u thâm lặng lẽ; cứu khắp muôn vật, trị ngự muời phương. Nói đến uy linh thì tuyệt đối; nghĩ đến thần lực lại vô cùng. Lớn thì bao la ngoài vũ trụ; nhỏ thì thâu rút trong hào ly. Không diệt không sanh, trải ngàn kiếp mà chẳng cổ; như ẩn như hiện, diễn trăm phúc mãi đến nay. Đạo cả sâu huyền, noi theo mà chẳng biết đâu là bờ mé; pháp mầu thẳm lặng, kiếm tìm cũng chẳng thấu đến căn nguyên. Cho nên những kẻ phàm phu ngu xuẩn, dung tục tầm thường, nghe đến há không nghi hoặc được ư?
Song Phật giáo khởi hưng, nền tảng xây từ Tây độ; Hán đình báo mộng, từ quang chiếu đến Đông phương. Nhớ ngày xưa hình tích vừa phân, chưa nói ra, người đều cảm hóa; vả lúc trước Phật còn tại thế, ngửa trông đức ai chẳng tuân theo; kịp đến khi ẩn bóng quy chơn, dung quang cách biệt; ánh vàng mờ tối, ba ngàn cõi chẳng chiếu hào quang; ngọc tượng phô bày, bốn tám tướng luống trơ hình dạng. Từ đó kim ngôn lan khắp, cứu vạn loại thoát khỏi tam đồ; di huấn truyền xa, dẫn chúng sinh đều lên thập địa. Nhưng mà chân giáo khó tin, được mấy kẻ nhất tâm quy ngưỡng; tạp học dễ tập, nào ai hay phân biệt chánh tà. Vì thế, không luận, hữu luận, quen thói tục, tranh thị tranh phi; Đại thừa Tiểu thừa, phải tùy thời thoạt suy, thoạt thịnh. Nay Pháp Sư Huyền Trang là bậc lãnh tụ chốn thiền môn. Nhỏ đà linh mẫn, tâm tam không (1) sớm tỉnh ngộ từ xưa, lớn lại thần tình, tánh tứ nhẫn (2) trước bao hàm đủ cả. Gió tùng trăng nước, chưa đủ ví thanh hoa; tuyết sáng ngọc trong, khó so bằng tư chất. Vậy nên, trí suốt thông không bị gì hệ lụy, thần soi thấu cả những việc chưa thành: vượt sáu trần xa hẳn lao lung; tột thiên cổ không ai sánh kịp. Lưu tâm nội cảnh, thương Chánh Pháp Suy vi; chú ý huyền môn, buồn thâm văn sai uyển. Nghĩ muốn chia điều chẽ lý, mở rộng chỗ học xưa; bỏ ngụy thêm chơn, khai thông kẻ hậu tấn. Vậy nên, lòng trông đất Tịnh, thân đến cõi Tây, mạo hiểm nghìn trùng, xông pha chiếc bóng. Ban mai tuyết phủ, đất mất đuờng đi; chiều xế, cát bay, trời mờ lối tới. Muôn dặm non sông, vén mây mù mà tiến bước; trăm tầng nắng rét, đạp sương tuyết để lên đuờng. Nặng lòng thành coi nhẹ gian lao; mạnh chí quyết sở cầu nguyện đạt. Châu du Tây vức muời lẻ bảy năm. Trải khắp đạo tràng tham cầu chánh giáo. Song lâm bát thủy (3) , suy nếm mùi thiền; Lộc Uyển Thứu Phong, thánh cảnh. Vâng chí ngôn của đấng thiên thánh, lãnh chơn giáo với bậc thượng hiền. Tìm thấu cửa mầu, tin cùng nghĩa áo. Đạo nhất thừa cùng năm luật bộ, đầy dẫy tâm điền; văn bát tạng với ba hòm kinh, dập dồn khẩu hải (4).
Những nước đã kinh lịch đi qua, tóm thâu được tám tạng (5) kinh văn, gồm có sáu trăm năm mươi bảy bộ, đem về dịch truyền bá khắp Trung Quốc, để tuyên dương thắng nghĩa. Dẫn mây Lành ở nơi Tây vức, rưới mưa Pháp vào chốn Đông thùy. Thánh giáo khuyết mà lại toàn, thương sanh tội mà lại phúc. Dập tắt ngọn lửa nồng hỏa trạch, dắt khỏi đuờng mê; lắng trong làn sóng dục ái hà, đồng lên bờ giác. Thế mới biết, ác do nghiệp trụy, thiện bởi duyên thăng, cái cớ thăng hay trụy đều chỉ tại lòng người. Ví như: quế mọc trên đỉnh cao, sương móc mới thấm nhuần được ngọn; sen sanh trong nước biếc, bụi nhơ khó vấy bợn đến hoa. Đó không phải là tánh sen tự sạch, chất quế vốn trinh, chỉ bởi ở tại nơi cao, nên vật hèn không thể lụy; nương vào chốn tịnh, nên loại bẩn khó làm nhơ. Kìa như cây cỏ vô tri, còn phải nhờ thiện mới nên thiện; huống hồ loài người có biết, lại chẳng bởi lành mà thành lành. Những mong kinh này lưu khắp, trải bao nhật nguyệt vô cùng, phúc ấy nhuần xa, sánh với càn khôn vĩnh viễn.
(Bản dịch của Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ
và Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu,
Sài Gòn, ngày 7 tháng 5 năm 1960)
Chú thích:
(1) Tam không: không, vô tướng, vô tác: ba môn giải thoát
(2) Tứ nhẫn: Trong kinh Tư Ích về phẩm Tứ nhẫn nói: Bồ tát có bốn pháp nhẫn để tiêu trừ tội phá giới: một là vô sanh nhẫn, hai vô diệt pháp nhẫn, ba nhân duyên nhẫn, bốn vô trú nhẫn. Các vị Bồ tát quan sát bốn điều nhẫn này khi chứng được thì tội phá giới thảy được tiêu trừ.
(3) Bát thủy: Tên tám con sông lớn Ấn Độ. Trong kinh Niết Bàn về phẩm Trường thọ nói rằng: Phật bảo ngài Ca Diếp, như tám con sông lớn, một Hằng Hà, hai Cát Ma La, ba Bát La, bốn A Di La Bạt Đề, năm Ma Hà, sáu Tân Đầu, bảy Bát Xoa, tám Tất Đà, đều chảy về biển cả.
(4) Khẩu hải: ý nói khẩu Thuyết thao như sóng biển (5) Tám tạng: Đại, Tiểu mỗi thừa đều có bốn tạng là kinh, luật, luận, tụng.
LeGiang is offline  
Đã có 4 thành viên gửi lời cám ơn đến LeGiang vì bạn đã đăng bài:
imindykam (11-10-2022), Randallfemn (16-08-2014), thanhqn86 (26-09-2015), Veronavdc (29-09-2022)
Old 06-07-2007, 10:41 PM   #4
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 595 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default Đại Đường Tây Vức Ký

Bài tựa thứ nhất
Đại Đường Tây Vức Ký

Thiết nghĩ: Cái nghĩa sâu xa thì chuyên chở vô cùng mà sự chứa nhóm của việc hiểu biết khác nhau tùy theo tâm tánh. Bàn đến chuyện trời đất cũng khó có chỗ cùng cực. Đất đai bao la rộng rãi, há chăng đây là bước đầu tiên. Muốn biết hết cái ý chí ấy mà chưa truyền đạt được. Mong nghe lời dạy dỗ mà chưa đến kịp. Há có thể hiểu được Đạo sao? Rành mạch về Thiên Trúc cũng vì nước nhà mà đến đó. Thánh Hiền là cầu nối bắc qua, nhân nghĩa ở đó đã thành tục lệ. Những việc như thế tuyệt nhiên thay cho túi đựng của Càn Khôn. Quả đất cách ngăn người và vật. Núi kia không kể thời gian năm tháng mà Vua cũng chẳng có thể ghi lại hết thành sách. Nhìn rộng ra thì như một khoảng trống không. Ít mong nơi dấu Trúc. Đàn hậu học rõ con đường bí lối, sai lầm phóng túng mà sức mạnh như hồ nước Cơ Thần. Bèn làm cho giá ngọc trong sáng như sao đêm. Hận cho sự huyền diệu đã trôi đi ngàn đời. Mộng và Ảnh theo nhau như mặt trời, mà cái ánh sáng thần kỳ ấy xa xôi trong vạn dặm.
Kịp đến lúc nhớ đi tìm Đạo như Ma Đằng đã vào Lạc Dương. Kinh tạng nằm nơi nhà đá, cũng chưa hết nơi Long Cung. Hình tượng họa vẽ tươi đẹp mỹ miều như đỉnh cao Linh Thứu. Từ trước đến nay, thời thế chính sự nhiều lo âu, yểm người giỏi lên cầm quyền. Dân bỏ Đông Kinh mà trơ trọi một mình. Mẫu hậu soán ngôi, quét sạch trong Triều và đã xé ra từng mảnh. Hiến chương như một cái hòm bị bó lại. Đốt đuốc để cảnh tỉnh nhưng vẫn bị bế tắc. Bốn phía nhân đây mà lập nên nhiều thành lũy. Đâu có xa xôi đây bao nhiêu, mà những khách đến mua danh chuộc tiếng, trong đời khó biết dường bao. Sự lệch lạc đó vẫn còn ghi chú lại. Yên ổn cho đến đất đai cũng vậy, bỏ bê việc tinh thần, chưa hết lòng như lời sắc chỉ. Dẫu có muốn thống nhất cũng thật là công việc biên cương to lớn. Trên cản trở lòng thành nơi bốn biển mà phải thở than. Hướng về phía đông như cái thoi liên kết. Đưa cao tiêu biểu trước cửa ngọc. Lại có nhiều người tin. Lợi lạc rộng rãi như khởi đầu của non cao. Che chở không những đầy đủ đời đời mà còn có thể chỉ lối Tuyết Sơn để đến. Hướng về Hồ Rồng mà chỉ một lòng. Chỉ vì cái Đức không bị vật uy hiếp mà chẳng thích hợp.
Đại Đường của ta có thiên hạ, mở mang đất nước, lập ra đế quốc quét sạch sao chổi, tẩy trừ sạch sẽ từng lối trong cõi đời. Công ấy ngang hàng với tạo hóa. Ánh sáng rọi soi, người như được tái sanh. Cốt nhục mà giống như lang sói, nhà cửa được triều đình ban thưởng dài lâu. Trở lại hồn ma nơi mồ mả. Gồm chưng các loại nơi xa lạ. Che đậy xa gần hoang sơ hưng phế. Cung điện mười châu như cái hồ nơi biển cả. Năm đời Vua là Vương Triều thưở trước. Pháp Sư từ nhỏ đã gần gũi Phật Môn. Bùi ngùi to lớn nơi vườn nhà chưa rõ hành vi tông tích, lòng nhớ nghĩ lâu dài đến Thánh tích. Nguỡng vọng nơi Lộc Uyển với tâm cao ngất. Áo Y nơi cảnh Tịnh, thật ra chỉ lo nghĩ cho vẹn toàn. Gặp thuần phong tập tục ở phương Tây, rồi sau đó mang Giới Luật về Đông Độ.
Năm Trinh Quán thứ ba, tay cầm tích trượng dò đường, để báo ơn Hoàng Đế bao đời trong cõi Tục, mà quên đi những khó khăn nguy hiểm chất chồng. Giả thật cũng là trợ duyên, đã đặt chân đến được nơi xa lạ ấy, đã gặp bao hiểm nguy như giá lạnh sương sa nhưng vẫn ra đi. Chỉ một lòng mong đến. Dùng ngôn ngữ để tìm Thật Tướng. Thấy hay không thấy, Có hay Không đều khảo sát tinh vi rõ hiểu. Nghe hay chẳng nghe, bởi vì việc sanh diệt, mở bày sự nghi ngờ như biển cả đã giác ngộ cho bao nhiêu kẻ còn mê. Tất cả đều nằm nơi kinh điển. Lời nói không cùng; nên cúi đầu trước Thánh tích. Chẳng có việc nào mà chẳng để ý đến, rồi mang trở về đây không ít, như cờ, xí, lọng, kinh. Vào tháng giêng năm Trinh Quán thứ 19 về đến Trường An, chở theo Kinh, Luận 657 bộ, được chiếu chỉ nên liền phiên dịch. Xem qua đã đi 110 nước. Những chuyện được kể ở đây rút ra trong 28 nước. Hoặc chính mắt thấy, hoặc chính tai nghe lại được chuyện xưa. Tuy mọi việc chưa ổn định, liền bắt tay vào việc lúc mới về, thỉnh mời thêm để dịch nghĩa, như bắc thang lên núi để tìm. Rồi hỷ hoan mừng rỡ như vỗ tay reo. Chịu nhận áo, mũ, cân, đai để thành lập.
Tuy rằng gió mưa, sự vật có sự sai khác, tập quán núi sông cũng thế; nhưng phải cúi đầu nơi nước xa xôi kia. Rồi họp lại các bậc kỳ túc của triều đình gần xa; Nương vào việc hiện tại mà chẳng quản nài cực khổ làm chỗ căn bản, chỉ vẽ rõ ràng cho người xung quanh. Đặt tên là "Đại Đường Tây Vức Ký" gồm một quyển 12 tập. Quên đi mọi việc mà viết nên thành lời, rồi nối chắp lại với nhau để trở thành những lời đẹp đẽ ghi chép thành câu với con đường khó khăn ấy để bổ sung thành sách. Thư Ký: Tả Lang kính viết lời tựa.
LeGiang is offline  
Đã có 2 thành viên gửi lời cám ơn đến LeGiang vì bạn đã đăng bài:
HuritZep (23-10-2016), JosephNulk (01-12-2014)
Old 06-07-2007, 10:43 PM   #5
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 595 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default Đại Đường Tây Vức Ký

Bài Tựa thứ hai
Đại Đường Tây Vức Ký

Nếu ngọc đẹp sẽ mãi chiếu sáng lưu truyền, nước Cam Lồ nhuần thấm nơi Đại Thiên. Kính soi màu vàng giương cao chiếu sáng. Hương thơm của gió mang lại nơi nầy. Cho nên phải biết rằng đó là sự thị hiện nơi Tam Giới, bằng xưng là bậc đáng quý trong đất trời. Ánh sáng bốn bên làm tiêu chuẩn to lớn trong thiên hạ. Đây là ánh sáng trí tuệ được rạng soi. Rồi nhờ ngựa, voi mang về Đông Độ. Vua đã rộng đường mở lối, thành lập từng bước có tính cách Điển Chương.
Tại Từ Ân Đạo Tràng có Tam Tạng Pháp Sư húy Huyền Trang, tánh họ Trần. Trước tiên chở người qua sông, rồi ngựa xe của Vua đến rước. Kinh sách chở về lại chỗ bắt đầu. Đài cao cửa rộng, đã trải qua chốn núi non cao vót tạo thành. Ba điều cung kính chiếu soi nơi Vu Cơ được chuyên chở. Sáu điều kỳ dị được chiếu sáng từ đời Nhà Hán đến nay. Sách của Nhà Tần như ánh sáng của mặt trăng. Con đường ra đi ấy giống như cái Đức tụ lập của sao Mai. Phó thác nơi hiểm hóc liên tục như vảy cá. Vua vốn nhờ gió Nhà Tề che chở. Cứu đời là cái đẹp. Chở che làm cảnh như bao dung. Pháp Sư đã được sanh ra, bao hàm cả cái Đức, đã có gốc gác thâm sâu tươi tốt ấy, rồi được dẫn dắt vào chốn linh thiêng, mở ra một thời đại mới, như ánh sáng mặt trăng. Cát góp nhiều năm như hoa Lan xông đến, như mùi thơm của Quế, liền thành lập ngay những người giỏi giang cao quý. Chín bệ chờ nghe, năm phủ giao tiếp. Phải sớm rõ giả chơn. Kính cẩn triệu mời từ bi trí tuệ.
Tấm gương chơn chánh ấy như nơm rợp cá, do sự sanh nhai luôn cần đến, mà dây chỉ đỏ được cột nơi mũ áo. Đó là cương giới buộc ràng. Xe quý, thuyền vững để đón người xuất thế. Do đó mà khách trần ai lưu lạc, rồi vào chốn nước đục. Lời nói khi trở về nhẹ nhàng rộng rãi làm cho huynh trưởng Tiệp Pháp Sư cũng là rường cột của dòng họ Thích mà thân thế cũng là bậc Long Tượng. Giống như con cò trắng của nơi nầy. Trong triều ngoài nội đâu đâu cũng nghe thấy tiếng. Liền vì tình thâm bằng hữu hòa kính với Thiên Nhan. Pháp Sư đã nghe lời chiếu chỉ. Những phần bị che lấp vì Nghiệp mà làm cho sáng tỏ phía trên. Kẻ ưu tú nơi nhà Thiền lấy cái Đức mà làm chuẩn mực. Bèn chia phòng ốc mà dịch sách, dịch kinh. Gói chín bộ kinh như ôm một giấc mộng, đánh trống, khơi nguồn sâu sắc. Cúi đầu bốn hướng mà cầu, từ đây biên thành chuyến ra đi qua việc hiểu biết mà đàm luận, đến được nhiều nơi như lòng đã thổn thức và việc ấy đã thành công. Có thể hoàn tất như trời đất mới bắt đầu ngày tháng. Tiếp xúc với sự vi diệu của thần linh, ai ai cũng đều vui vẻ, để phát huy sự linh thiêng ấy.
Đây là lời vàng mở đầu, nhân mùa thu lạnh sương tuyết tràn đầy, ngọc bính vừa thắt vào cũng giống như sương kia ẩn tính nước. Nếu gặp bánh xe chuyển động, dụ như biết được giây đàn. Rót nước vào bình nghe rõ tiếng. Thuyền hư trôi nổi đi xa mà gặp được đất liền, thì trước tiên phải lo cho cái bụng đã xa rời làng xóm. Nổi trôi ở một góc xa xôi, xa rời cố quốc, cho nên nói rằng:
Ngày xưa nghe người họ Cẩu cùng tám con rồng, còn nay thì thấy được cửa nhà họ Trần. Người luôn biết nhiều nơi lạ và nay chép lại những lời thành thật nầy. Pháp Sư từ nhỏ đến lớn, có cái tâm sâu sắc lúc ra đi tìm chân lý, danh ấy vẫn còn lưu lại ngày sau. Đem Kinh sách về, tiếng hay đồn khắp đó đây mà vẫn không quên gốc gác. Bẻ hoa làm đau sự thật; nên có sự học hỏi sai khác giữa nam và bắc, đúng sai chia rõ. Lời xưa như thế, hãy dùng cái tốt là chuyện hiển nhiên. Hoặc sợ sự tuyển dịch dẫm chân lên nhau, chưa có thể đi sâu hơn, muốn xông hương lời văn và sẽ để mắt vào nơi Long cung nữa. Đó là cái Đức tuyệt luân, đã đến thời kỳ làm cho rõ cái ý; nên đã chống tích trượng mặc Pháp y, lần dò theo biên giới. Đây là do sự mong muốn của Ngài, vượt qua núi cao thẳng đến nơi Thánh Tích. Sông đất nối dài quá nhiều nguy hiểm. Nếu không có nguyện vọng rộng lớn thì không thể đi xa; nên đã nương theo Ngài Pháp Hiển mà đến. Dùng bước chân của mình đến đó để nghiên cứu hoàn thành, ngay cả tiếng địa phương cũng thông suốt. Tìm cầu học hỏi mọi lẽ huyền vi và sự vi diệu vô cùng ấy cũng đã gặp. Văn từ ấy như con hạt vàng mang về từ Thiên Trúc. Lời Kinh còn ghi trên lá Bối, mang về chỉnh trang lại.
Thái Tông Văn Hoàng Đế đã ngự đến bằng xe vàng, mang Kinh Điển đặt lên chỗ quý, chở đi cẩn thận; rồi quanh khắp điện Vua. Qua chỗ hiểu biết, sắp đặt cho chỗ ăn chỗ ở, rồi tự tay ban bố chu cấp cho người tiếp tục. Cúi đầu bày vẽ chỗ sáng suốt hiểu biết và Vua đã ban cho lời Tựa cho Tam Tạng Thánh Giáo có 780 chữ. Nay vẫn còn tồn tại lời thuật của Thánh Ý. Trong đó có 579 chữ nhằm tán dương sự huyền diệu của kinh thơ và nêu cao ý chỉ, như một vệt sáng để chim có thể bay về rừng, mà ánh sáng ấy đã phát xuất từ non Linh Thứu. Há việc ấy đã giáng lâm.
Phụng chiếu phiên dịch bản chữ Phạn gồm 657 bộ qua việc thấy, nghe, biết về những tục lệ khác ấy, chẳng mất tính chất đặc thù và địa dư cách trở. Nhân đây làm lời Tựa vào ngày mồng một để bắt đầu cho sự hiểu biết Giáo lý ấy mà viết lên Đại Đường Tây Vức Ký gồm có 12 quyển, biên chép sao lục những điển tích, cũng như những gốc gác rõ ràng. Lời nói ấy không mục nát vẫn còn ở lại nơi nầy. Thượng Thơ Tả Bộc Xạ Yến Quốc Công
Trương Thuyết soạn
LeGiang is offline  
Đã có thành viên gửi lời cám ơn đến LeGiang vì bạn đã đăng bài:
Svetlanatqr (07-10-2022)
Old 06-07-2007, 10:44 PM   #6
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 595 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default Quyển thứ nhất

Quyển thứ nhất
(34 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
1. Nước A Kỳ Ni
2. Nước Quật Chi
3. Nước Phạt Lục Già
4. Nước Xích Kiến
5. Nước Giã Thời
6. Nước Phế Hãn
7. Nước Tốt Đỗ Lợi Sắc Na
8. Nước Phong Mạc Kiến
9. Nước Nhi Chư Hạ
10. Nước Kiếp Bố Xương Na
11. Nước Quật Tương Nhi Ca
12. Nước Yết Hãn
13. Nước Bổ Yết
14. Nước Đại Địa
15. Nước Hóa Lợi Tập Di Dà
16. Nước Yết Sương Na
17. Nước Hằng Mật
18. Nước Diệt Ngạc Hạnh Na
19. Nước Nhẫn Lộ Ma
20. Nước Dụ Mạng
21. Nước Cúc Hòa Hằng Na
22. Nước Hoạch Sa
23. Nước Khả Xuất La
24. Nước Câu Mễ Đã
25. Nước Phược Già Lãng
26. Nước Ngật Lộ Tất Ni Kiến
27. Nước Nhẫn Lẩm
28. Nước Phược Yết
29. Nước Duệ Mạt Da
30. Nước Hồ Thật Kiến
31. Nước Đản Sắc Kiến
32. Nước Yết Thức
33. Nước Phạm Hành Na
34. Nước Ca Tất Thí

Lịch sử được diễn ra để dâng hiến cho Hoàng Đế xem xét qua sự việc biên chép, gói ghém những lễ nghi đầu tiên đưa ra làm chấn động. Cái trục quay của bánh xe ấy, đã rũ xuống như chiếc áo che chở lúc ban đầu. Cho nên Ty Mục Lê Nguyên căn cứ vào đây mà chia ra cương lãnh. Huống hồ nhà Đường nhận được mệnh Trời từ Vua Nghiêu, ánh sáng ấy đã nhuần thấm bốn bể. Nhà Ngu, nhà Vũ đã thêm vào địa đồ, cái đức ấy đã nhuần khắp nơi chín cõi. Từ ấy đến nay, những việc Có, Không đều ghi nơi sách vở. Xa nghe nơi phía trước đã sửa đổi và sự nghe biết ấy ghi lại thành sử. Đó chẳng phải là lúc gặp Đạo Vận Vô Vi sao?
Đại Đường của chúng ta tối cao trong trời đất, thừa thời cơ nắm lấy vận mệnh đã từ lâu, mười sáu nơi hợp thành cung nội, bốn mươi ba đời Vua liên tiếp chiếu soi. Sự huyền hóa ấy chan hòa khắp chốn. Gió lành mở cửa, cùng càn khôn chuyên chở, mưa móc nhuần thấm cỏ cây. Làm hưng thịnh phía đông và người phía tây phải triều cống. Sáng Nghiệp ấy chưa hoàn toàn thống nhất, nhưng đã trừ sạch những loạn quân phản chánh. Việc ấy đã hơn hẳn những vị Vua đời trước. Ví như văn hiến cùng cung cách trị nước đã thành công, chẳng ghi chép vào đây cũng không phải là sự tán dương không to lớn. Không được sự soi sáng thì làm sao Nghiệp Đế lại vững bền. Cho nên Huyền Trang mới theo đó mà đi được, đến ở nước kia, để khảo cứu những tập tục lạ. Nhờ lòng tin mà đã vượt qua năm ba cõi. Cùng với nơi kia bị gió mưa làm nhọc; nhưng vẫn chưa nói lời nào để tâng công, đã tự mình vượt qua quan ải, mới đến được các nơi ở Thiên Trúc, chỗ ấy chứa đầy tục lệ khác ta, đều là những nơi chưa hề quen biết, hoặc thừa lúc gió bấc mà thấm vào lời dạy. Đó là do sự huân tập của Người. Nói lên sự thật nơi cửa miệng. Lời văn thật hay nhờ cái Đức cao dày, vì đã xem xét rõ ràng mà được sự che chở. Cho nên thường nghe: Xa xôi mưu nghĩ về sách vở, mà sự thành thật không có hai. Nếu không có sự trung thực hà tất phải viết lại ở đây. Nay căn cứ theo sự thấy nghe ấy mà thuật lại.
Ở thế giới Ta Bà nầy là một trong ba ngàn đại thiên quốc độ, Phật đã vì đây mà nhiếp hóa, ngày nay nhật nguyệt đã chiếu soi trong bốn châu thiên hạ. Căn cứ vào trong ba ngàn đại thiên thế giới ấy, chư Phật Thế Tôn đều vì đó mà giáo hóa, hiện đang sanh, hiện đang diệt. Cả đạo Thánh lẫn đạo Phàm mà Tu Di Sơn đã do bốn báu hợp thành nằm giữa biển lớn. Trên đó có bánh xe vàng, mặt trời, mặt trăng đều chiếu rọi. Đây cũng là nơi chư Thiên qua lại, dạo chơi nơi bãi núi, bãi biển ấy. Xoay tròn như thế, cho đến núi biển sông ngòi, trở thành nước tám công đức. Bên ngoài thất kim sơn kia là biển cả. Trong biển ấy cũng có thể ở được mà đại lược gọi là bốn châu thiên hạ. Phía đông có Tỳ Đề Ha Châu. Phía nam có Chiêm Bộ Châu (Diêm Phù Đề). Phía tây có Cù Đà Ni Châu. Phía bắc có Câu Lô Châu. Tất cả đều được bao bọc bởi Kim Luân Vương trong bốn châu thiên hạ.
Ngân Luân Vương giữ gìn Bắc Câu Lô Châu. Đồng Luân Vương giữ Bắc Cu Lô và Tây Cù Đà Ni. Thiết Luân Vương ở Chiêm Bộ Châu. Phàm là Luân Vương là kẻ làm Vua tùy theo phước báu và chiêu cảm để có được đại Luân Bảo. Nổi trôi trên hư không mà đến và được phân biệt bởi các danh từ: kim, ngân, đồng, thiết sai khác nhau thay vì nêu thứ tự của các cảnh giới là: thứ tư, thứ ba, thứ hai và thứ nhất. Nhân đây mà phóng ra ánh sáng đoan nghiêm để làm hiệu lệnh. Phía Thiệm Bộ Châu ở giữa có đất, lại có hồ Nhiệt Não. Núi Hương Sơn nằm ở phía Nam. Núi Tuyết Sơn nằm ở phía bắc. Chu vi tám trăm vạn dặm. Bên bờ lại được trang sức bởi kim, ngân, lưu ly, pha lê mà thành. Chung quanh có cát vàng bao bọc. Sóng trong xanh như tấm kính. Nơi đại địa Bồ Tát do nguyện lực mà hóa thành Long Vương lấy đó làm nhà.
Ra khỏi nước trong mát kia, nơi cõi Chiêm Bộ Châu, có một cái hồ ở mặt phía đông, màu nước bạc chảy ra khỏi một cái miệng, lớn như miệng bò. Sông Hằng bao quanh hồ nầy, rồi nhập vào phía đông của biển. Mặt hồ phía nam như miệng của Voi, lưu chảy đến sông Tín Độ, vây quanh hồ một đoạn, rồi nhập vào phía tây nam của biển. Mặt hồ phía tây như lưu ly, giống như miệng của con ngựa và chảy đến sông Phược Sô, vây quanh hồ một lần, rồi nước đổ vào biển phía tây bắc. Mặt hồ phía bắc giống như miệng con sư tử Phả Thi chảy vào sông Đồ Đa, vòng quanh hồ một vòng rồi nhập vào phía đông bắc của biển. Hoặc nói rằng thấm vào đất, khiến cho sanh ra núi đá, tức là sông Đồ Đa, cũng gọi là sông khởi nguyên ở giữa nước Ấn Độ.
Lúc ấy Vua Luân Vương ứng vận, đất đai ở Chiêm Bộ Châu có bốn vị chủ thần. Phía nam có Tượng Chủ, tức Trứ Thấp Nghi Tượng. Tây Bảo chủ giáp với biển quý. Bắc Mã chủ với Hàng Kinh Nghi Mã. Đông Nhơn chủ, cùng với con người tạo nên quốc gia Tượng chủ. Hay nóng nảy, thường làm điều sai trái và đặc biệt rất nhàn hạ với các nghệ thuật khác. Ăn mặc thì quấn ngang bên phải, đầu chia tóc ra bốn bên, thuộc loại ở nhà cửa lầu các. Đó là quê hương của Bảo chủ. Vô lễ nghĩa trọng tài vật. Chế ra đồ mặc ngắn, cắt tóc và để tóc mai dài ra. Cư trú nơi Đô Thành, thâu gặt buôn bán lấy làm lợi tức. Trong tục lệ của Mã chủ, trời sai hung bạo, tánh tình hay sát hại, lông bụng mọc nổi lên như chim có thể làm tổ được.
Nơi con người làm chủ thì có phong tục, trí tuệ nhân nghĩa được chiếu sáng. Đầu đội mũ, áo mang đai bên phải như quân phục. Đất đai có nhiều loại và cày cấy trồng trọt có nhiều vụ. Trong ba vị làm chủ ấy, phong tục phương Đông đứng đầu. Họ ở nơi phòng ốc và cửa nhà hướng về phía đông. Ngày ngày vào mỗi buổi sáng hướng về hướng đông để lễ bái. Đất đai của con người nằm ở phía Nam, gồm nhiều vật quý. Phong tục đặc thù. Rất đặc biệt nhưng đại khái là như vậy. Họ đối với nhau bằng cái lễ của quân thần có trên, có dưới. Lấy hiến chương làm căn bản và đất đai của con người có giới hạn. Tâm trong sạch, thích nghe lời giải thích khi cần đến và muốn xa lìa nơi sanh tử theo lời dạy.
Trong khi đó, nước Tượng chủ đang có cái lý ưu thế, liền mặc áo đi qua để cật vấn những tục lệ địa phương, rộng biết mở bày xưa nay và tra cứu rõ ràng việc nghe thấy. Cho nên từ đó, giáo pháp của Phật mới truyền sang Đông độ, thông dịch tiếng nói, ngôn ngữ của địa phương. Vì chú âm sai lầm nên ý nghĩa thường không đúng. Khi chữ sai thì lý trái ngược cho nên phải làm cho đúng vậy, đừng cho sai trái. Phàm làm người có cương nhu khác nhau, tiếng nói chẳng giống; nhưng đều giàu có về phong tục và khí hậu đất đai. Có nhiều phong tục được đặt ra. Sông, núi, sản vật, phong tục, tập quán tuy không giống nhau nhưng con người vẫn làm trọng tâm. Có sử sách nước mình ghi lại rõ ràng. Tục lệ của Mã Chủ, làng xóm của Bảo Chủ đã được chuyên chở đầy đủ trên nhiều sử sách. Ở đây xin lược bớt. Nước Tượng Chủ, thì chuyện xưa chẳng rõ. Chỉ biết đất đai nóng và ẩm ướt. Những tập tục tốt và nhân từ được lưu lại. Nhưng còn vấn đề ở đâu, không thấy nêu lên rõ ràng. Há con đường ấy đã có, nhưng vô thường đã thay đổi vậy. Đời sau muốn hiểu biết phải tìm mà đến.
Uống nước nên đến nơi bờ, vượt qua hiểm nguy mà đến nơi cửa ngọc. Cống hiến những điều kỳ lạ mà bái vọng. Bởi lẽ cái khó được mà nói được. Do lý nầy mà phải tìm đường để đi xa. Sự ích lợi ấy còn ghi lại cả phong thổ tập quán. Những đỉnh núi cao đã vượt qua; nhưng tục lệ của Hồ chưa rõ hết. Tuy con người có lớn nhỏ khác nhau, nhưng đều thông suốt và tộc loại có chia ra biên giới lãnh thổ. Đại khái về phong thổ, ăn mặc, xây dựng thành ấp, mùa màng, trồng trọt, ruộng vườn, gia súc, tánh tình hay quý trọng tiền tài. Có nơi tục lệ lại coi nhẹ nhân nghĩa. Giá thú không lễ nghi, tôn ty chẳng có. Có nơi trọng đàn bà, còn đàn ông thì không được trọng dụng. Chết thì thiêu, hài cốt còn vô số. Có chỗ thì mặt bôi than, tai cắt, tóc ngắn, mặc xà rông, giết hại súc vật để cúng tế thần linh. Đồ thì mặc nhiều lớp, hung ác, hèn hạ. Những phong tục như thế đều giản lược bớt, chỉ tuyển ra một vài tập quán với những chính sách đặc thù được chế ra, do từng địa phương khác biệt. Sau đây sẽ ghi lại những phong tục, ngôn ngữ của Ấn Độ, để xướng danh đất nước nầy cho những người gần xa. Đầu tiên là nước A Kỳ Ni.
1) Nước A Kỳ Ni, đông tây hơn sáu trăm dặm. Nam bắc hơn bốn trăm dặm, chu vi của Thủ đô 67 dặm. Bốn phía bao bọc bởi núi non hiểm trở. Sông ngòi ao hồ, lấy nước đó làm ruộng. Ruộng ấy cấy lúa. Trồng hoa, trồng nho, lê và các thứ cây ăn quả khác. Khí hậu điều hoà, phong tục chất trực. Chữ nghĩa lấy từ tiếng Ấn Độ. Dùng vải thô để phục sức, cắt tóc không trang điểm. Tiền thì có tiền vàng tiền bạc và tiền đồng nhỏ. Vua của nước này là người dõng mãnh mưu lược; nhưng nước không có kỷ cương, luật pháp không chỉnh đốn. Nơi đây có hơn 10 ngôi chùa. Tăng tín đồ có hơn 2000 người. Họ theo Tiểu Thừa giáo, Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Kinh điển luật nghi đều học theo Ấn Độ. Sự học tập cũng như văn chương ấy đều lấy giới luật thanh tịnh làm đầu; nhưng dùng tam tịnh nhục, đại biểu cho Tiệm giáo vậy. Từ đây đi đến phía tây Nam hai trăm dặm hơn, phải qua một núi nhỏ, hai con sông lớn. Phía Tây có Bình Nguyên, đi hơn 700 dặm thì đến nước Quật Chi.
2) Nước Quật Chi, đông tây hơn ngàn dặm. Nam Bắc hơn 600 dặm. Thủ đô của nước này 78 dặm. Có trồng lúa mạch, nho, lựu và nhiều đào lê. Những thổ sản như vàng, đồng, thiếc, khí hậu phong tục ôn hoà. Chữ nghĩa cũng lấy từ Ấn Độ để cải biến thành. Đối xử tốt đẹp với các nước láng giềng. Ăn mặc bằng vải thô, tóc cắt ngắn. Tiền bạc dùng bằng đồng vàng, đồng bạc và tiền đồng loại nhỏ. Nước này có Vua mưu lược dõng mãnh, lại có những cường thần. Ở đây có nhiều sự biến thái của dân tộc. Chùa chiền hơn trăm cái. Tăng tín đồ hơn 5.000 người học tập theo Tiểu Thừa giáo thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Kinh giáo luật nghi đều lấy từ Ấn Độ. Đọc nguyên theo những bản văn chính. Theo tiệm giáo nên dùng tam tịnh nhục. Kẻ thanh tịnh được cung kính. Phía đông của quốc gia này có một ao rất lớn. Nơi đó xuất hiện nhiều con rồng hay lấy nhau với ngựa sanh ra ngựa rồng trông rất khó coi. Ngựa rồng được huấn luyện thuần thục. Cho nên nước này có nhiều ngựa hay. Nghe người xưa thuật lại rằng: Nhà Vua gần đây hiệu là Kim Hoa Chánh Giáo Minh Sát Cảm Long Mã Thừa. Vua muốn khi chết chưa hết tiếng; nên đã truyền lại cho đến ngày nay. Ở trong thành không có giếng mà lấy nước từ ao hồ. Rồng cũng biến thành người, giao hợp với phụ nữ, sanh con mạnh mẽ như ngựa. Như thế những người ở đây đều thuộc giống rồng, dùng sức mạnh để ra uy không tuân theo Vương mệnh. Vua sát hại những người trong thành này, vì không có sách lược nên ít hại được ai và thành này bây giờ cũng không còn người nữa.
Hoàng thành phía Bắc hơn 40 dặm giáp với núi và sông. Có hai ngôi chùa cùng có tên Chiếu Cổ Cốc; nhưng Đông Tây thì tùy xưng. Sự trang sức Phật tượng do nhân công làm lấy. Tăng tín đồ dùng trai thanh tịnh. Tại Phật đường Chùa Chiếu Cổ này có ngọc thạch. Mặt dài hai tấc, màu vàng và trắng giống như nước biển. Tại đây cũng có dấu chân của Đức Phật, chiều dài cở tám tấc, chiều rộng cở sáu tấc. Những ngày lễ lạc đều có thắp đèn. Bên ngoài cửa phía Tây của thành ở hai bên đường đều có dựng tượng Phật. Cao hơn 90 tấc. Nơi trước tượng này cứ mỗi 5 năm có một lần đại hội, cúng lễ mùa thu đến 10 ngày. Tăng tín đồ đều đến đây tập hội. Trên từ quân vương, dưới đến thứ dân theo phong tục này phụng trì trai giới. Thọ kinh thính pháp ngày này qua ngày khác. Chư Tăng sửa soạn Phật tượng nơi già lam dùng vải để trang sức, kết hoa nơi Phật tượng. Vương Đại Thần cũng hội nghị quốc sự cùng với cao Tăng, khi đông nhất có cả ngàn người vân tập thường vào ngày 15 mỗi tháng. Từ hội trường tây bắc qua sông đến A Nhã Lý có hai ngôi Già Lam, nơi đây thờ tự Phật tượng rất đẹp đẽ. Tăng tín đồ siêng năng tu học không giải đãi. Họ là những người có đức độ và học vấn cao. Xa xôi cách mấy cũng có nhiều người đến không dừng. Quốc Vương đại thần thứ dân tả hữu luôn luôn có tứ sự cúng dường và có tâm cung kính. Nghe người xưa nói lại rằng Vua đời trước rất sùng kính Tam Bảo, muốn đi chiêm bái các Thánh Tích, nên để cho mẹ và em nhiếp chính. Người em lãnh giữ, nhưng chưa tự phòng giữ được như vua anh, nên có vấn đề. Khi ngài trở về lại chẳng như ý nên Vua đã cho người khác thay thế. Những kết quả của Vua em làm đã tạo nên những việc loạn dâm trong triều đình cung nội. Khi Vua nghe được như vậy liền giận dữ muốn nghiêm phạt. Người em nói rằng : "Em muốn cho Vương Triều phát đạt tạo nên thế lực lớn, mà sanh ra kết quả khác thường như vậy. Có ngờ đâu sinh ra việc ấy".
Lại nói khi Vua đi du hành để lại những công việc triều chính, mà người em đã làm hại thì kết quả bây giờ đã có nhật nguyệt chiếu soi. Nhà Vua vì tình cảm anh em mà cho vào ra nơi cung đình không có nghiêm cấm. Sau đó Vua em đã tự tiện giết 500 con bò, thấy thế liền nghi mọi việc băng hoại. Chẳng qua là túc nghiệp của ta giống như loài bò nầy vì lòng từ thiện mà hy sinh vậy. Những kẻ có hình người nam không được nhập cung. Nhà Vua được điều trần trước sau như vậy; nhưng nhà Vua vẫn đặc biệt cho kiến tạo già lam xây dựng chỗ ở cho Tăng. Từ đây đến phía tây sáu trăm dặm, trải qua sa mạc nhỏ đến nước Phạt Lục Già.
3) Nước Phạt Lục Già, đông tây hơn 600 dặm. Nam Bắc hơn 300 dặm, chu vi thành nội 56 dặm, thời tiết phong tục điều hòa. Chữ viết dùng giống như nước Quật Chi. Tiếng nói ít đổi khác. Có sự giao thiệp với nước lân bang rất tốt. Chùa viện có hơn 10 cái. Tăng tín đồ hơn 1000 người tu theo Tiểu Thừa, thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Phía tây bắc hơn 300 dặm từ núi đá đến Lăng Sơn, phía nầy có núi cao và bình nguyên. Có nhiều sông chảy về hướng đông, núi cao có tuyết. Mùa xuân mùa hạ vẫn còn đóng băng, tùy lúc băng tan rồi trở thành nước. Đường đi hiểm trở, mùa đông gió lạnh thê lương. Nơi đây đa phần những kẻ phạm nhân bị đày, đường đi khó khăn, chẳng mang theo được đồ dùng, kêu nhau lớn tiếng. Nếu có vi phạm thì nguy đến tính mạng. Gió thổi mạnh làm cát đá bay như mưa. Nếu ai gặp phải chẳng toàn sinh mệnh. Đi núi suốt như thế hơn 400 dặm thì tới ao rất lớn, nơi nầy còn gọi là biển nóng, chu vi ngàn dặm. Phía đông tây dài phía nam bắc thì hẹp, bốn phía đều là núi, nước chảy từ trên ấy xuống. Màu nước xanh đen, vị thường đăng đắng. Sóng chao gió đảo có rồng cá đủ loại, linh quái nổi lên. Cho nên khách vãng lai phải tạo phước. Những loài thủy tộc nầy đa phần là cá lớn. Ao nước nầy từ phía tây bắc đi hơn 500 dặm, đến thành Tố Diệp Thủy.
Thành nầy chu vi 67 dặm, đây là nơi các nhà buôn bán ở với nhau lẫn lộn. Thổ sản ở đây là lúa mạch, nho, cây rừng. Khí hậu gió mùa rất lạnh, phía tây thành Tố Diệp nầy còn có mười thành khác riêng lẽ, thành nào cũng dài, nhưng không dùng đến. Tất cả đều loang lỗ. Từ thành Tố Diệp Thủy đến nước Yết Sương Na có địa danh là Tốt Lợi. Người cũng như vậy. Văn tự ngôn ngữ rất tùy tiện. Chữ căn bản rất đơn giản, chỉ có hai mươi chữ. Từ đó phát sanh lưu chuyển rộng rãi. Cũng có thư ký ngồi đọc kinh văn để phụ giúp những giáo thọ sư, ăn mặc đơn giản. Áo phủ đầu, nhưng tóc để lộ ra ngoài hoặc đôi khi che kín, trông hình dung thật khác thường. Tánh tình cũng vậy, phong tục thuần hóa nhưng không thành thật, nhiều tánh tham lam. Cha con kế thừa lợi tức, tiền càng nhiều càng quý. Tiền là trên hết. Có rất nhiều người giàu, tiền bạc lương thực, kẻ ăn người ở rất nhiều.
Phía tây Tố Thành đi bốn trăm dặm hơn đến 1000 cái suối, người địa phương gọi là ngàn suối, cách hơn 200 dặm về phía nam, có núi Tuyết, ba mặt khác giáp bình nguyên, đất đai tốt tươi, cây trái xanh tốt. Những tháng mùa xuân có hoa lạ, nước nơi ngàn suối nầy cung cấp mà nên. Sau đó chảy vào nhiều nơi khác nhau, làm cho mọi nơi được xanh tốt. Người qua lại chỗ nầy chốn nọ cũng không có gì kinh sợ lắm. Họ thường quây quần với nhau. Kẻ có tội thì giết, không có ân xá. Cho nên sự sống thành tập đoàn nầy rất có ý nghĩa. Từ phía tây một ngàn suối nầy đi hơn 145 dặm đến thành Đản La Tu, thành nầy chu vi 89 dặm, các nước buôn bán tạp lục ở đây. Đất đai khí hậu cây cối ôn hòa, đi về phía nam hơn 10 dặm có một thành riêng biệt, nơi đó có 300 căn nhà, trong ấy có người ở. Ngày xưa chỉ là những hang động. Sau nầy thành nước non để cùng giữ thành nầy. Những người sống trong đó ăn mặc giống nhau, tiếng tăm lễ nghĩa vẫn còn bảo tồn. Từ đây đi qua phía tây nam hơn hai trăm dặm đến thành Bạch Thủy, thành nầy chu vi 67 dặm, đất đai thổ sản phong tục khí hậu hơn hẳn ở Đản La Tu. Phía tây nam đi hơn 200 dặm thì đến thành Cung Ngự, thành nầy chu vi 56 dặm, nơi đây có nhiều cây cối to lớn. Từ phía nam nầy đi hơn 45 dặm, đến nước Xích Kiến.
4) Nước Xích Kiến, chu vi hơn ngàn dặm, đất đai tốt tươi, nhà xây tường. Cây cỏ hoa trái sum sê, có nhiều loại nho quý. Thành ấp có trăm thành, mỗi thành có vị đứng đầu. Đến lui đi ở thưa trình. Tất cả tụ lại thành khu và tổng xưng là nước Xích Kiến. Từ phía tây bắc đi hơn 200 dặm, đến nước Giả Thời.
5) Nước Giả Thời, chu vi hơn ngàn dặm, phía tây giáp Diệp Hà, phía đông tây hẹp, phía nam bắc dài, đất đai khí hậu cũng giống như nước Xích Kiến. Thành ấp hơn mười cái, mỗi cái đều có vị đứng đầu, nhưng không có người tổng chỉ huy. Từ phía đông nam nầy, hơn ngàn dặm, đến nước Phế Hãn.
6) Nước Phế Hãn, chu vi bốn ngàn dặm. Bốn bề núi bao bọc, đất đai hẹp, nhà cửa xây tường, có nhiều hoa quả và ngựa dê. Khí hậu gió mưa con người đều cương trực. Ngôn ngữ khác với các nước kia. Hình hài cũng khác biệt. Từ hơn mười năm không có vị đứng đầu. Vì lẽ ai cũng tranh quyền lực không phục nhau. Có hiểm họa sẽ chia đất. Từ phía tây đi đến hai ngàn dặm thì đến nước Tốt Đỗ Lợi Sắc Na.
7) Nước Tốt Đỗ Lợi Sắc Na, chu vi một ngàn bốn trăm năm chục dặm, phía đông giáp sông Diệp, từ sông Diệp nầy về hướng bình nguyên phía bắc, từ tây bắc chảy tiếp tục với lưu lượng nước chảy xiết, đất đai phong tục cũng giống như nước Giả Thời, từ xưa đã có Vương Phủ cai trị. Từ phía tây bắc vào đến sa mạc chẳng có cỏ nước gì cả. Giữa đường khó biết được biên giới nơi đâu, chỉ nhìn núi cao để tìm dấu vết, mới có thể biết được. Từ đó đi qua hơn năm trăm dặm nữa, đến nước phong Mạc Kiến.
8) Nước Phong Mạc Kiến, chu vi một ngàn sáu trăm bảy mươi dặm, phía đông tây dài, phía nam bắc hẹp, chu vi của thủ đô hơn 20 dặm, có nhiều Cư dân sinh sống. Có nhiều hàng hóa trân quý của các nước khác đem đến nước nầy, đất đai màu mỡ, nhà làm bằng gỗ và xây tường. Cây cỏ hoa quả tốt tươi, nơi đây có nhiều ngựa quý và có nhiều đồ công nghệ tốt đẹp. Khí hậu ôn hòa, phong tục sống động. Phàm các nước lân cận đến nước nầy, phải theo quy tắc xa gần mà giữ lấy. Vua của nước nầy tôn trọng luật pháp của lân bang. Binh mã hùng dũng, đa phần giống như tánh cách hùng dũng của người nước Giã Thời và nước Yết Sương Na, xem nhẹ sự chết không luyến tiếc. Từ đây đến phía đông nam đi đến nước Nhi Mạc Hà.
9) Nước Nhi Mạc Hà, chu vi bốn trăm năm chục dặm, có nhiều sông; đông tây hẹp, nam bắc dài, đất đai phong tục giống như nước Phong Mạc Kiến. Từ phía bắc đến nước Kiếp Bố Đãn Na.
10) Nước Kiếp Bố Đãn Na, chu vi 1450 dặm, phía đông tây dài, phía nam bắc hẹp, đất đai phong tục giống như nước Phong Mạc Kiến. Từ nước nầy đi về phía tây hơn 300 dặm, đến nước Quật Tương Nhi Ca.
11) Nước Quật Tương Nhi Ca, chu vi một ngàn bốn trăm năm mươi dặm, đông tây hẹp, nam bắc dài, đất đai phong tục giống như nước Phong Mạc Kiến. Từ nước nầy đi qua phía tây hai trăm dặm hơn đến nước Yết Hãn.
12) Nước Yết Hãn, chu vi hơn một ngàn dặm, đất đai phong tục giống như nước phong Mạc Kiến, từ phía bắc nước nầy đi về phía tây hơn 400 dặm đến nước Bổ Yết.
13) Nước Bổ Yết, chu vi một ngàn sáu trăm bảy mươi dặm, đông tây dài nam bắc hẹp, đất đai phong tục giống như nước Phong Mạc Kiến. Từ nước nầy đi về phía tây hơn bốn trăm dặm đến nước Đại Địa.
14) Nước Đại Địa, chu vi hơn bốn trăm dặm, đất đai phong tục giống như nước Phong Mạc Kiến, từ đây đi về phía tây nam hơn năm trăm dặm, đến nước Hóa Lợi Tập Di Già.
15) Nước Hóa Lợi Tập Di Già, hai bên có sông bao bọc, đông tây hơn hai mươi ba dặm, nam bắc hơn năm trăm dặm, đất đai phong tục giống như nước Đại Địa, ngôn ngữ không khác mấy. Từ nước phong Mạc Kiến đi về phía tây nam hơn 300 dặm, đến nước Yết Tương Na.
16) Nước Yết Tương Na, chu vi một ngàn bốn trăm năm chục dặm, đất đai phong tục giống như nước Phong Mạc Kiến, từ đây đi về phía tây nam hơn hai trăm dặm đến núi, đường núi hẹp rất nguy hiểm ít người qua lại, hiếm cỏ cây và nước. Từ núi phía đông nam đi hơn ba trăm dặm, qua một cái cổng làm bằng sắt, hai bên cổng sắt núi non bao phủ, càng lúc càng hẹp, sự hiểm trở càng nhiều hơn. Đường hai bên đá dựng đứng màu sắc giống như màu thiếc, tất cả đều giống như thiếc vậy. Có nhiều chuông làm bằng sắt treo nơi cửa ra vào để kiểm tra sự nguy hiểm. Ra khỏi cổng sắt đến nước Đỗ Hóa La.
Nước nầy nam bắc hơn ngàn dặm, đông tây hơn ba ngàn dặm, phía đông nguy hiểm có núi cao, phía tây tiếp xúc với Ba Lặt Kỳ, phía nam có núi tuyết, phía bắc có cổng sắt, chung quanh sông ngòi bao bọc chảy về hướng tây, từ hơn một trăm năm nay, vương tộc không có người nối quyền. Do vậy những thế lực cạnh tranh với nhau để nắm quyền, thật là nguy hiểm. Nước nầy chia làm 27 nước nhỏ, chỉ có một khu tổng hành dinh. Khí hậu nơi đây khá ôn hòa nhưng dễ sinh bệnh. Cuối mùa đông đầu mùa xuân, luôn luôn có mưa phùn, do vậy cảnh trí ở phía nam ôn hòa hơn phía bắc, phong thổ của nước nầy thuộc ôn đới nên có nhiều bệnh tật. Vào ngày 16 tháng 12 Tăng tín đồ của nước nầy vào an cư đến 15 tháng 3 thì giải chế, mùa nầy cũng là mùa mưa cho nên cũng thích hợp vậy. Phong tục nầy đã lâu đời, mọi người tuân theo tin tưởng vào sự tu học. Ngôn ngữ được dùng khá khác biệt với các nước khác. Chữ gốc chỉ có 25 chữ, từ đó phát triển ra, để dùng viết thư, chữ viết ngang, đọc từ trái qua phải. Ngôn ngữ đa phần giống như chữ của nước Tốt Lợi, y phục, hàng hóa dùng tiền để mua, đối với nước nầy từ sông phía bắc xuống hạ lưu đến nước Đãn Mật Quốc.
17) Nước Đãn Mật Quốc, chu vi đông tây hơn 600 dặm, nam bắc hơn 400 dặm. Thủ đô của nước này hơn 20 dặm. Đông Tây dài, Nam Bắc hẹp. Có hơn 10 cảnh chùa. Tăng tín đồ hơn 1.000 người. Nước này nằm gần biên giới của nước Tốt Đỗ Lợi. Nơi đây, có xây nhiều ngọn tháp; nhưng nay đã không còn. Các tượng Phật cũng như các tượng thần linh dáng vẽ khác nhau. Đi đến phía Đông thì gặp nước Diệt Ngạc Hạnh Na.
18) Nước Diệt Ngạc Hạnh Na, chu vi đông tây 400 dặm hơn. Tây bắc hơn 500 dặm. Chu vi thủ đô hơn 10 dặm. Chùa chiền có năm cơ sở. Tăng tín đồ rất ít. Đi đến phía đông là nước Nhẫn Lộ Ma.
19) Nước Nhẫn Lộ Ma, chu vi đông tây hơn 100 dặm. Nam bắc hơn 300 dặm. Chu vi của thủ đô hơn 10 dặm. Nước này có Vua. Chùa có hai ngôi. Tăng tín đồ trên 100 người. Phía đông giáp nước Dụ Mạn.
20) Nước Dụ Mạn chu vi đông tây hơn 400 dặm. Nam bắc hơn 100 dặm. Chu vi thủ đô hơn 16,7 dặm. Nước này cũng có Vua. Chùa có hai ngôi. Tăng tín đồ rất ít. Phía Tây nam giáp với sông. Kế đến là nước Cúc Hòa Hạnh Na.
21) Nước Cúc Hòa Hạnh Na, chu vi đông tây hơn 200 dặm. Nam bắc hơn 300 dặm. Chu vi của thủ đô hơn 10 dặm. Có ba ngôi chùa. Tăng tín đồ hơn 100 người. Phía đông giáp nước Hoạch Sa.
22) Nước Hoạch Sa, chu vi đông tây hơn 300 dặm. Nam bắc hơn 500 dặm. Thủ đô 16,7 dặm. Phía đông thì giáp nước Khả Xuất La.
23) Nước Khả Xuất La, chu vi đông tây hơn 1.000 dặm. Nam Bắc hơn 1.000 dặm. Thủ đô của nước này hơn 20 dặm. Phía đông giáp với núi cao. Tiếp đến nước Câu Mê Đa.
24) Nước Câu Mê Đa, chu vi đông tây 2.000 dặm. Nam bắc hơn 200 dặm. Giữa nước có núi cao. Thủ đô chu vi hơn 20 dặm. Phía tây nam giáp với sông hồ. Phía nam giáp với nước Hộ Khí. Qua phía nam vẫn còn sông. Tiếp với nước Đạt Ma Tất Thiết Đế, nước Bát Thích Sáng Na, nước Dâm Bạt Kiến, nước Quật Lãng Nô, nước Ma Đẳng La, nước Bát Lợi Yết, nước Cật Phiếu Sắc Ma. Nước Yết La Hồ. Nước A Lợi Ni. Nước Tào Kiến. Nước Tự Hoạt. Đi về hướng đông nam, đến nước Khoát Tất Đa và nước An Đãn La. Trong hồi ký, viết rằng từ nước Hoạt đến phía tây nam là nước Phược Gia Lãng.
25) Nước Phược Gia Lãng, chu vi đông tây 50 dặm. Nam bắc 200 dặm. Thủ đô hơn 10 dặm. Phía nam tiếp với nước Ngật Lộ Tất Ni Kiến.
26) Nước Ngật Lộ Tất Ni Kiến, chu vi hơn 1.000 dặm. Thủ đô hơn 14 dặm. Phía tây bắc giáp với nước Nhẫn Lẩm.
27) Nước Nhẫn Lẩm, chu vi hơn 800 dặm. Đô thành chu vi 56 dặm. Nơi đây có 10 ngôi chùa. Tăng tín đồ hơn 500 người. Phía tây giáp với nước Phược Yết.
28) Nước Phược Yết, đông tây hơn 800 dặm. Nam bắc hơn 400 dặm. Phía bắc có nhiều sông ngòi. Thủ đô chu vi hơn 20 dặm. Người ở đây thường gọi Tiểu Thành Vương Xá. Tuy nhiên trong thành sống rất ít người. Đất đai màu mỡ. Sản vật rất nhiều. Hoa quả cũng lắm loại. Già Lam có hơn 100 ngôi. Tăng tín đồ trên 3.000 người. Tất cả đều theo Tiểu Thừa. Phía ngoài thành tây nam có Già Lam lớn do tiên đế đã kiến thiết nên. Có các vị Đại Luận Sư tập họp ở núi tuyết phía Bắc. Chỉ có nơi Già Lam này là tuyệt đẹp không thể xưng tán hết. Những tượng Phật là những bảo vật trân quý vô giá. Chùa trang hoàng những bảo vật rất lộng lẫy. Vì vậy có nhiều nước lân bang công kích. Chùa này có tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Những vật quý được bảo vệ nơi đây. Gần đó lại có những hang động. Vì lẽ có khuynh hướng sống theo bộ lạc cho nên hay di động, mà Gia Lam này trở thành biểu tượng trân quý. Trong quá khứ điều này khó có được. Có người trong đêm mộng thấy vị Tỳ Sa Môn Thiên Vương nói rằng:
- Nếu nhà ngươi có sức lực cũng không nên phá hoại Già Lam này. Vì đây là não bộ của con người. Nếu phá đi thì con người sẽ bệnh hoạn.
Trong mộng cũng báo rằng nên thỉnh chư tăng sám hối lễ tạ. Nếu trái lại thì có nguy cơ. Trong đất Già Lam này ở phía nam Phật đường có nhiều tượng Phật màu sắc vàng của đá khác nhau. Đây cũng có răng Phật, chiều dài hơn mấy tấc, chiều rộng 8, 9 phân. Răng có màu vàng màu trắng chiếu ánh sáng, lại cũng có áo Cà Sa của Phật ngay cả Y Tăng Già Lê cũng có. Chiều dài hơn hai thước, chiều ngang bảy tấc. Gồm nhiều vật quý hợp thành. Ba vật quý này mỗi năm đến kỳ tế lễ chư Tăng đem trần thiết trang hoàng, để cúng dường. Vì sự chí thành cảm ứng nên răng đã phóng quang. Phía bắc của chùa này có tháp cao hơn 20 thước. Gọi là tháp Kim Cang. Trong đó trang trí nhiều đồ quý và ở giữa có thờ Xá Lợi rất quý giá.
Phía tây nam của Chùa có một tinh xá thành lập đã lâu đời. Xa gần lui tới toàn những bậc cao đức. Họ chứng thánh quả không nói hết được. Tại đây cũng có Vị A La Hán đã nhập Niết Bàn và đã thị hiện thần thông mọi người biết được. Cho nên những tháp khác được mọc lên số kể hơn 100 ngôi. Tuy chứng thánh quả; nhưng không phải tất cả đều biến hoá. Quả việc này có ngàn cách khác nhau không ghi hết được. Lúc đó Tăng tín đồ hơn 100 người ngày đêm túc trực nơi đền thánh.
Chu vi thành hơn 50 dặm. Tiếp đến là thành khác. Thành phía bắc hơn 40 dặm. Tiếp đó có thành Ba Lợi. Ở trong thành có một ngôi tháp cao 3 thước. Ngày xưa nơi đây Như Lai đã sơ chứng Phật quả. Sau khi rời khỏi cây Bồ Đề có hai vị trưởng giả người Miến Điện gặp Ngài với oai đức uy nghiêm. Dáng đi trầm mặc thong thả. Thế Tôn vì người mà nói phước báu của nhân thiên. Thế Tôn đã truyền ngũ giới thập thiện cho họ. Sau khi nghe Pháp họ đã cúng dường mật ngọt. Như Lai đã cho họ tóc và móng tay. Hai trưởng giả này về lại nước với lòng tôn kính vô biên. Như Lai đã làm việc ấy khi Tăng Già chưa thành lập. Kế đến là dâng Uất Đa La Tăng y và những y áo khác cũng như bình bát. Họ đã làm tháp để thờ. Hai người này khi trở lại nước đã vâng thánh chỉ của Vua mà tôn sùng kiến tạo chùa tháp để tôn thờ giáo pháp của Đức Thích Ca. Đây là ngôi tháp đầu tiên vậy.
Thành phía tây hơn 70 dặm có một tháp khác cao hơn 2 thước. Tháp này được kiến tạo từ thời Phật Ca Diếp. Từ thành lớn này ở phía tây nam đi vào núi tuyết thì đến nước Duệ Mạt Đa.
29) Nước Duệ Mạt Đa, đông tây 56 dặm; nam bắc hơn 100 dặm. Đô thành hơn 10 dặm. Phía tây nam giáp đến nước Hồ Thỉ Kiến.
30) Nước Hồ Thỉ Kiến, đông tây hơn 500 dặm; nam bắc hơn 1.000 dặm. Đô thành hơn 20 dặm. nơi đây có nhiều sông núi và có nhiều ngựa hay. Phía tây bắc giáp nước Đản Sắt Kiến.
31) Nước Đản Sắt Kiến, đông tây hơn 500 dặm. Nam bắc hơn 56 dặm. Kinh thành chu vi hơn 10 dặm. Phía tây tiếp với biên giới của nước Ba Sắc Kỳ. Tiếp theo là nước Phược Yết. Đi về phía nam hơn 100 dặm thì gặp nước Yết Chức.
32) Nước Yết Chức, đông tây hơn 500 dặm; nam bắc hơn 300 dặm. Đô thành chu vi 45 dặm. Đất đai phì nhiêu nhưng ít hoa quả, nhiều lúa mạch. Khí hậu lạnh, phong tục lành mạnh. Có hơn 10 cảnh chùa. Tăng tín đồ trên 300 người. Họ theo phái Tiểu Thừa thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Phía đông nam đi vào núi tuyết. Núi cao vòi vọi nguy hiểm khôn cùng. Gió tuyết ngay cả mùa Hạ cũng đông lạnh. Tuyết đóng thành băng nên rất khó đi. Ở đây họ tôn trọng sơn thần và những loài quỷ mị. Bọn cướp hợp đoàn tung hoành ngang dọc sát hại. Đi thêm sáu trăm dặm nữa thì đến nước Đô Hoá. Sau đó là nước Phạm Hạnh Na.
33) Nước Phạm Hạnh Na, đông tây hơn 2.000 dặm; nam bắc hơn 300 dặm. Nằm ngay trong núi tuyết. Người người hay sống trong hang động. Đô thành đa phần cũng là động đá. Chiều dài 67 dặm. Phía bắc rất cao, có lúa mạch, ít hoa quả. Nuôi gia súc, đa phần là dê và ngựa. Khí hậu lạnh, phong tục tốt đẹp, đa phần ăn mặc kín đáo. Chữ nghĩa phong tục do sự giáo hoá mà thành. Sử dụng tiền tệ giống như nước Đô Hoá La. Ngôn ngữ ít có sự sai khác. Lễ nghi đại khái giống nhau. Có lòng tin cũng giống như nước láng giềng. Trên cũng kính Tam Bảo, dưới cho đến thần dân không bị mất cướp, thành thật, tâm địa tôn kính. Có nhiều khách thương vãng lai. Thiên thần thường hay xuất hiện. Đó là do sự biến hoá của việc cầu phước đức mà nên. Chùa chiền hơn 10 ngôi. Tăng tín đồ hơn 1.000 người. Họ theo Tiểu Thừa Giáo thuộc Thuyết Xuất Thế Bộ. Vương thành phía đông bắc gần núi có tượng Phật đá đứng cao 145 mét. Màu sắc vàng, trang sức bằng những loại đá quý. Phía đông có Già Lam do Tiên đế đã kiến tạo nên. Tiếp đó có tượng Thích Ca bằng đá đứng cao hơn 100 thước. Phân thân đứng riêng biệt để trở thành một quần thể như thế.
Thành phía đông có 23 dặm. Giữa chùa có tượng Phật nhập Niết Bàn nằm, chiều dài 100 thước. Vua nước này thường hay thiết lễ cầu siêu. Trên từ vợ con dưới đến thần dân đều lấy của trong kho của Vua, đem ra bố thí. Quần thần tả hữu cũng đều làm việc đó như là một nhiệm vụ.
Chùa có tượng Phật nằm. Đi về hướng đông nam hơn 200 dặm thì gặp núi tuyết. Phía đông đến một số sông nhỏ. Có ao hồ cây trái sum sê, lại có một cảnh chùa khác giữa chùa có thờ Răng Phật, và thờ Răng Phật của Bích Chi, dài hơn 5 phân, ngang 4 phân. Lại cũng có Răng của Kim Luân Vương dài 3 phân, rộng 2 phân. Thương Na Hòa Tu Đại A La Hán cũng có bình bát bằng thiếc, tám chín cái. Tất cả ở đây đều là đồ vật của các Thánh Hiền và những phong thư vàng, lại có y Tăng Già Lê, cửu điều của ngài Thương Na Hòa Tu. Y nầy có màu hoại sắc làm bằng da và cỏ. Đệ tử của Ngài A La Hán Thương Na Hòa Tu đã làm nên những chiếc y nầy, nhân cơ hội an cư của chúng tăng mà cúng dường. Đây là y Phước Điền để hàng phục thân trung ấm trong thời gian năm trăm lần. Đến thân sau cùng sẽ được đầu thai trở lại. Thân thể cao thấp y nầy sẽ theo đó mà lớn rộng ra. Và theo các vị A La Hán khác để xuất gia. Y nầy sẽ trở thành Pháp phục để đầy đủ cụ túc giới. Và cũng biến thành y Tăng Già Lê, cửu điều chứng tịch diệt nhập vào biên tế định. Phát thành trí tuệ và nguyện lực, lưu giữ nơi Ca Sa nầy, cho đến đời Thích Ca Như Lai, sau khi giáo pháp diệt rồi y nầy sẽ biến hoại. Đây là ý chỉ lòng tin vi diệu vậy. Từ phía đông nầy, đi vào núi tuyết tên là Du Việt Hắc đến nước Ca Tất Thí.
34) Nước Ca Tất Thí, chu vi bốn ngàn dặm hơn, nằm phía bắc Hy Mã Lạp Sơn, ba bên có ngọn núi cao, chu vi thủ đô hơn mười dặm. Nơi đây có nhiều lúa mạch và hoa quả. Sản xuất nhiều ngựa quý và uất kim hương (nghệ). Có nhiều làng mạc trong quốc gia nầy. Khí hậu phong thổ lạnh. Nhân tình hiền hậu. Lời nói dễ nghe, cưới hỏi phức tạp. Chữ viết giống như nước Đổ Hóa La, nhưng phong tục, ngôn ngữ và tôn giáo có nhiều khác biệt. Ăn mặc dùng toàn đồ bằng lông và da. Tiền tệ thì sử dụng tiền vàng, tiền bạc và tiền đồng. Về cách thức sử dụng cũng có nhiều khác biệt tại quốc gia nầy. Nhà vua nước nầy cũng có mưu trí mãnh liệt, hay đi uy hiếp lân bang, thống hợp hơn 10 nước, nhưng có tâm thương bá tánh và tôn sùng Tam Bảo, đã kiến tạo tám tượng Phật bằng bạc và thường chẩn tế để cứu độ sanh linh. Chu cấp cho những người nghèo khổ. Già lam có hơn 100 ngôi. Tăng tín đồ có hơn 6000 người, đa phần người ở đây theo Phật giáo Đại Thừa. Tháp, chùa được xây dựng rộng lớn để hoằng pháp giáo hóa một cách nghiêm tịnh. Chùa Viện của tôn giáo khác hơn mười ngôi, những người theo đạo khác hơn 1000 người, hoặc lõa thể, hoặc bôi mình, hoặc nhuộm từ đầu đến chân.
Thành lớn phía đông hơn ba dặm tư, dưới chân núi phía bắc cũng có một đại Già Lam, Tăng tín đồ hơn 300 người. Họ theo Tiểu Thừa giáo. Nghe người xưa nói lại rằng đây là nước Kiền Đà La của vua Ca Nị Sắc Ca uy hiếp lân bang chinh phục những nước ở xa, binh lính dàn trải cho đến dãy núi phía đông. Và vượt sông sang phía tây để uy hiếp tiếp tục. Vua Ca Nị Sắc Ca được toại nguyện, xây dựng cung điện ở nhiều nơi theo mùa nóng và lạnh. Mùa đông ở các nước tại Ấn Độ, mùa hè trở về nước Ca Tất Thí. Mùa xuân và mùa thu thì đến kiến thiết nước Kiền Đà La. Nhà Vua nầy chia cách sinh hoạt làm ba nơi, kiến tạo Già Lam và những Già Lam nầy là chỗ ở mùa hạ vậy. Trên tường của những nơi nầy có những bức họa dung nhan phục sức khác nhau, giữa mùa hạ, trở lại bổn quốc để duỡng tâm. Tuy cách trở giang sơn nhưng vẫn phát tâm cúng dường cho tăng chúng trong mùa an cư kiết hạ. Tổ chức nhiều trai đàn pháp hội để cầu phước bố thí, điều đó luôn luôn được diễn ra, không bao giờ ngừng nghỉ. Chùa Viện ở cửa đông có tạo nên tượng Nam Đại Thần Vương. Chân bên phải có những vật quý, có nghĩa rằng người nầy giữ gìn cho Già Lam. Tướng của vị nầy rất hung bạo. Nghe chùa nầy có nhiều của quý, được tồn trữ, nên nhiều người muốn khai quật. Các tượng thần vương cũng có hình chim oanh vũ, có cất được tiếng kêu. Đất nơi đây có thể giao động. Nhà Vua và quân lính đến nơi đây thì trở lại yên ổn và lại ra về.
Phía bắc Già Lam nầy có núi cao, và trong núi ấy có nhiều phòng ốc bằng đá, dùng để học tập. Trong nầy cũng có chứa nhiều của quý. Ở trong nầy cũng có bảo tồn những loài thuốc quý, nếu có ai muốn khai quật lấy đi bảo vật, thì thuốc nầy sẽ được biến hiện khác hình hoặc trở thành Sư Tử, hoặc trở thành mãng xà mãnh hổ độc trùng, hình thù biến dị cho nên chẳng có người nào có thể lấy được. Từ những động đá nầy hơn bốn trăm hai mươi ba dặm, đến núi cao và trên ấy có tượng đức Quán Tự Tại Bồ Tát, người nào có lòng thành sẽ thấy được. Bồ Tát từ nơi tượng nầy phát xuất ra những màu sắc vi diệu để an ủi những người muốn cầu.
Cách thành lớn từ phía đông nam hơn ba mươi dặm thì đến Tăng Già Lam Yết La Cổ La, nơi đó cũng có đại tháp cao hơn 100 thước. Khi đến giờ Ngọ trai thì đốt đèn, dùng đèn dầu để đốt ra khói màu đen. Vào đêm tối lại nghe âm nhạc. Chuyện xưa kể rằng đây là nơi được kiến thiết bởi vị Đại Thần Yết La Cổ La, sau khi xây thành xong nằm mộng thấy có người bảo rằng: Ngươi nên kiến lập bảo tháp, sau đó ắt có xá lợi. Ngày hôm sau quả nhiên như vậy có người hiến xá lợi. Nhà Vua đã cho thỉnh vào triều. Do chỗ cầu nguyện mà nhà vua muốn rằng nhà vua có trước. Vua bảo sau nầy sẽ làm một nơi để bái vọng tại nước Yết La Cổ La. Ta chỉ là một người mang Xá Lợi. Vị Đại Thần hỏi rằng:
- Cúng Xá Lợi nào?
Đáp:
- Xá Lợi của Phật
Vị Đại Thần nói:
- Hạ Thần đang giữ đây, xin tâu bệ hạ biết Nước Yết La Cổ La, sợ Vua trân quý Xá Lợi mà không suy nghĩ. Do đó cho nên dựng xây già lam và bảo tháp.
Vì lẽ chí thành cho nên được cảm ứng, bát bằng đá kia tự mở nắp để an trí Xá Lợi vào. Khi an trí xong, niêm phong rồi bảo mọi người thối lui, đóng cửa đá lại. Từ đó sinh ra mùi hương dầu màu đen. Thành phía nam hơn bốn chục dặm, đến thành Tập Tô Đa Đợi Sắc Ty. Phàm có động đất, đến độ nào, thành nầy vẫn không giao động.
Thành Tập Tô Đa Đợi Sắc Ty từ phía Nam hơn 30 dặm đến núi A Lộ Như. Trên núi nầy có nhiều hang động. Đỉnh núi mỗi năm cao thêm hàng trăm phân, cùng với nước Tào Thần Ngật và núi Hiếp Na Tu La, hai bên gần nhau và cùng thịnh suy như nhau. Được biết từ các phong tục rằng: Ngày xưa Hiếp Na Thiên Thần từ xa đến, muốn dừng chân ở núi nầy. Sơn Thần phẩn nộ, dao động thành hang động. Thiên Thần nói: Nếu không chừa bỏ thì sẽ khuynh động đổi thành tài sản của chủ mới. Ta nay đến nước Tào Thần Ngật và núi Hiếp Na Tu La, mỗi năm ta nhận lễ vật từ Quốc Vương Đại Thần hiến dâng và luôn luôn phải như vậy, thì núi A Lộ Như sẽ được nâng cao lên, bằng không sẽ bị băng hoại. Vương thành phía tây bắc hơn 200 dặm thì đến núi Tuyết, trên đỉnh có hồ. Do sự cầu nguyện mà nước mưa luôn có. Nghe người xưa thuật lại rằng: xưa có vị A La Hán ở nước Kiền Đà La thường hay nhận sự cúng dường từ Long Vương ở ao hồ nầy. Mỗi ngày cho đến bữa ăn trưa hay dùng thần thông để ngồi trên giường bay qua lại nơi hư không. Các thị giả Sa Di đều được an ổn ở nơi ấy. Chỉ có vị A La Hán thì hay qua lại Long Cung. Khi gặp Sa Di, Long Vương mời ở lại dùng cơm. Long Vương dùng đồ ăn cam lồ của A La Hán biến thành hương vị của nhân gian cho vị Sa Di, A La Hán khi dùng cơm xong vì Long Vương mà thuyết các Pháp quan trọng. Sa Di như thường lệ vì Thầy mà rửa bát. Trong bát có dư hạt cơm có hương vị liền khởi lên niệm ác rằng hận Thầy và phẩn nộ với Long Vương. Nguyện cho các phước lực ngay bây giờ đoạn mất mệnh của Long Vương và ta tự làm vua. Khi Sa Di phát nguyện như vậy rồi thì Long Vương bị đau đầu. Khi A La Hán thuyết pháp xong, Long Vương tạ lễ, Sa Di phẩn nộ vì chưa được có lời tạ nên trở lại Già Lam và phát nguyện tiếp: nhờ phước lực mà đêm nay mệnh chung vì Đại Long Vương uy đức mà phát. Chờ vào nơi ao để sát hại Long Vương và ở luôn nơi Long Cung, để thống lĩnh tất cả mọi loài. Do lời nguyện đó mà gió mưa nổi dậy làm gãy đổ cây cối và hại cả Già Lam. Cho nên Vua Ca Nị Sắc Ca kinh ngạc và hỏi rằng vị A La Hán nầy có phải là Vua không? Vị Vua đó tức là rồng đang ở trong núi tuyết, lập Tăng Già Lam kiến tạo bảo tháp cao hơn 100 thước. Rồng vì giận mà làm cho nổi mưa nổi gió. Vua vì có tâm hoằng truyền Phật Pháp, rồng vì sân hận mà làm dữ, nên chùa viện và bảo tháp sáu cái bị hư biến thành bảy. Vua Ca Nị Sắc Ca xấu hổ vì chẳng thành công nên muốn trấn hồ rồng nầy để làm chỗ cư ngụ. Cho nên đã đem binh lính đến dưới núi Tuyết sơn. Lúc ấy bị Long Vương nhớ lại chuyện xưa làm chấn động biến thành một người Bà La Môn già lạy Vua mà trần tình rằng: Đại Vương ngày xưa đã trồng nhiều căn lành nhiều loại khác nhau cho nên thắng vậy. Được làm vua trên đời, chẳng có ý niệm báo ân. Ngày hôm nay, vì cớ sao mà giao tranh với Long Vương. Phàm là rồng thuộc về loại súc sanh vậy, cũng thuộc loài ác. Vì sao mà uy lực không đủ để cạnh tranh, như hô phong hoán vũ để có nước mà người thường không làm được. Há rằng tâm vua vẫn còn phẩn nộ sao? Vua bây giờ vừa cầm nước vừa cầm binh cùng chiến đấu với một con rồng, sự thắng chắc chắn thuộc về vua, không còn xa xôi gì nữa. Do vậy mà vua cũng không có gì xấu hổ, cho nên Vua lập kế rút binh. Về sau trở thành vua Ca Nị Sắc Ca vậy.Rồng cũng trở lại hồ nghe được âm thanh chấn động, gió mưa cuồn cuộn làm cho cây cối đất đá lung lay, mưa rơi nặng hạt làm cho quân mã kinh hoàng. Nhà vua quy y Tam Bảo thỉnh cầu lực gia hộ cho nên ngay lúc đó có được nhiều phước và được làm vua trên cõi đời. Uy hiếp những cường địch thống lĩnh các bộ châu. Cho nên nay mới đến đảo tìm rồng mà té ra ta là người bạc phước vậy. Nguyện cho các phước đức hiện tiền nếu có thì ở nơi hai vai ta bốc khói lên. Rồng liền dứt gió ngưng mưa, trời trở nên trong lặng. Vua đã ra lệnh cho quân lính dùng đá để trấn Long Trì. Long Vương biến lại thành Bà La Môn yêu cầu Vua rằng:
- Ta là Long Vương của ao kia, xin quy mệnh. Nhưng xin Vua vì lòng từ mà nghĩ về quá khứ, nếu Vua muốn các sinh linh được sống lâu làm sao để cho ta bị sát hại. Nếu Vua muốn sát hại ta, ta sẽ cùng vua bị đọa vào ác đạo mà vua trở thành đoản mệnh. Ta nhớ lại tâm sợ hãi lo lắng kia vì nghiệp báo và thiện ác sẽ rõ ràng. Vua lùi bước và rồng minh thị rằng nếu ai phạm thì không xứng đáng. Rồng nói rằng ta vì ác nghiệp mà thọ thân làm rồng. Tánh rồng hung ác không thể tự giữ được tâm sân hận khi khởi lên lại hay quên mà không chế ngự được. Nay Vua làm chùa, đừng hủy hoại nữa. Mỗi người chúng ta nên trở về núi, nếu có mây đen nổi lên thì nên thối lui. Ta nghe tiếng rằng do tâm ác kia mà vua nầy tu phước kiến tạo Già Lam, Bảo Tháp, hầu muốn mưa gió không dứt. Nghe tục lệ chép lại rằng: Nơi bảo tháp kia có nhục cốt xá lợi của Như Lai có thể hơn một thăng, biến hóa vô cùng khó nói hết được, có lúc ở trong tháp nầy có khói phát ra, từ cửa nhỏ phát ra khói lớn. Lúc đó có người nghi rằng tháp kia tự bốc cháy. Chiêm ngưỡng lâu thì lửa tắt khói tiêu. Lại thấy Xá Lợi trắng như lưu ly trở vào nơi bát và thăng lên không trung, thăng lên trên cao rồi hạ xuống trở lại.
Vương thành phía tây bắc có sông lớn. Phía nam có Già Lam. Ở bên trong có răng nhỏ của đức Thích Ca chiều dài hơn một phân, tại Già Lam nầy phía đông nam lại có một Già Lam nữa cũng có tên của Tiên vương. Lại có xá lợi xương của Như Lai một mảnh bề rộng hơn một tấc, màu vàng, còn lông tóc màu trắng rất rõ ràng. Lại cũng có tóc của Như Lai màu xanh mượt giống như màu đá, dài hơn một thước, có thể cuốn lại phân nửa. Phàm ba việc nầy gặp được là nhà vua và đại thần tung hoa cúng dường. Từ Già Lam đến phía tây nam có một Già Lam khác trong Bảo Tháp có thờ tượng vàng cao hơn 100 thước. Được biết từ phong tục rằng ở trong tháp nầy, lại có Xá Lợi Phật hơn một đấu, mỗi tháng vào ngày 15, giữa đêm phát ra ánh sáng tròn. Ánh sáng kia rất rực rỡ bay lên hạ xuống rồi nhập vô tháp.
Thành phía tây nam có núi Tỳ Là Bạt có tạo tượng sơn thần, cũng gọi là tượng hiền. Ngày xưa khi Như Lai còn tại thế, thần nầy phụng thỉnh đức Thế Tôn cùng với một ngàn hai trăm vị Đại A La Hán, trên đỉnh núi có bàn đá lớn, Như Lai ngồi đó thọ sự cúng dường của thần. Từ đó về sau, nhà Vua đã xây tháp nơi bàn đá nầy cao hơn 100 thước. Đời nay, người ta gọi là tháp Tượng Hiền vậy. Lại cũng gọi là tháp có hơn một đấu Xá Lợi Như Lai. Ở phía bắc của tháp Tượng Hiền, dưới chân núi có một hồ rồng, nơi đây chính là nơi đức Như Lai thọ lãnh bữa cơm của thần và nơi mà các vị A La Hán ăn xong xỉa răng. Nhờ trồng thiện căn nầy mà thành cây rừng, để người đời sau kiến tạo thành Già Lam tên là Bi Thích Khứ, (Tước Dương Chi). Từ phía đông đi qua hơn 600 dặm, núi khe tiếp giáp với đỉnh đồi. Vượt qua đỉnh núi đen, vào biên giới phía bắc Ấn Độ đến Lam Bà.
LeGiang is offline  
Đã có 2 thành viên gửi lời cám ơn đến LeGiang vì bạn đã đăng bài:
JosephNulk (19-11-2014), PrainiaWage (02-09-2014)
Old 06-07-2007, 10:47 PM   #7
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 595 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default Quyển thứ hai

Quyển thứ hai
(3 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
1. Nước Lam Bà
2. Nước Na Yết La Yết
3. Nước Kiền Đà La

Những nước này thuộc về Ấn Độ; nhưng lễ nghĩa phong tục khác nhau. Nên có thể nói là riêng biệt. Hoặc nói là: Hiền Đậu. Đây dịch theo âm gọi là Ấn Độ. Người người tuỳ theo đó mà xưng là người Ấn Độ. Do những phong tục khác nhau mà có tên gọi khác nhau. Tiếng gọi Ấn Độ này có nghĩa là: Tốt đẹp. Đời nhà Đường gọi Ấn Độ có nhiều tên khác nhau. Nhưng có một tên xưng gọi nghĩa là mọi loài bị luân hồi không gián đoạn. Vì vô minh tăm tối nên chưa ra khỏi nơi này. Giống như mặt trời chiếu sáng làm tỏ rạng chỗ tối tăm. Tuy có ánh sáng ngôi sao chiếu đó. Há làm sao sáng bằng được ánh sáng mặt trăng? Vì nhân duyên ấy nên ở đây dụ cho mặt trăng là điều tốt đẹp, mà với đất nước này Thánh hiền tương tục xuất hiện như ánh sáng mặt trăng rọi soi. Do ý nghĩa nầy mà có tên là Ấn Độ. Ấn Độ được chia ra nhiều dân tộc và chủng loại khác nhau. Nhưng Bà La Môn vẫn là một giai cấp cao quý, mà từ tục lệ đã biến thành như vậy. Trải qua nhiều thời gian sai khác, gọi chung là nước Bà La Môn.
Nếu nói về lãnh vực biên giới, có thể nói rằng chung quanh Ấn Độ có năm nước và chu vi rộng hơn 90.000 dặm. Ba bên đều có biển. Phía bắc giáp Hy Mã Lạp Sơn. Phía bắc rộng phía nam hẹp. Hình dạng như mặt trăng khuyết. Trong đó còn chia ra hơn 70 nước nữa. Đa phần thuộc về nhiệt đới. Đất đai có nhiều suối nước nóng. Phía bắc có nhiều núi đồi. Phía đông có sông ngòi và ao hồ. Phía nam cây cỏ tốt tươi. Phía tây đất đai phì nhiêu. Đại khái xin lượt qua như vậy.
Đại đa số được gọi là Du Thiện Na. Du Thiện Na có nghĩa là từ xưa các vị Thánh Vương mỗi ngày đều đi du hành. Theo truyện cổ một Du Thiện Na hơn 40 dặm. Theo phong tục của nước Ấn Độ chỉ có 30 dặm. Theo giáo lý viết chỉ có 16 dặm. Cuối cùng phân tích một Du Thiện Na là tám Câu Lô Xá (Krosa - theo Tỳ Đàm Luận: bốn gang tay là một cung, 500 cung là một Câu Lô Xá, là hai dặm, tám Câu Lô Xá là một Do Tuần tức 16 dặm). Câu Lô Xá có nghĩa là tiếng rống của con bò có thể nghe được (năm dặm) nên xưng là Câu Lô Xá. cũng có định nghĩa khác: một Câu Lô Xá là 500 cung. Một cung là bốn Mạch. Một Mạch chia làm 24 Chỉ. Một Chỉ tức là bảy hạt lúa. Cho đến gọi là Lông bò, lông dê, sừng thỏ, nước đồng, cũng còn gọi 7 phần này là một Vi trần. Vi trần chia ra làm 7 phần nhỏ nữa gọi là Cực vi trần. Cực vi trần thì không thể chia thêm nhỏ nữa. Nếu chia thêm sẽ trở về không. Cho nên gọi là cực vi vậy. Cũng có lịch âm dương đối chiếu theo ngày tháng, xưng gọi là đặc thù không khác. Tuỳ theo ngôi sao mà định hướng của tên tháng. Thời gian ngắn nhất gọi là sát na. 120 sát na làm một Đản Sát Na. 60 Đản Sát Na thành một Thử thần. 30 Thử thần là một Mâu Hồ Phiêu Đa. Năm Mâu Hồ Phiêu Đa là một giờ. Sáu giờ thành một ngày một đêm. Nhưng cũng có nơi chia ra mỗi ngày đêm có tám giờ. Đầu tháng cho đến giữa tháng là tháng trắng. Giữa tháng có trăng cho đến tháng cuối gọi là tháng đen. Phần đen là trước ngày 14 và 15. Trăng thì có trăng già và trăng non. Có trăng và không trăng (trắng và đen) hợp thành một tháng. Sáu tháng như vậy là một hành. Mặt trời đi bên trong gọi là bắc hành, mặt trời đi bên ngoài gọi là nam hành. Tổng cộng có 2 hành hợp lại thành 1 năm. Mỗi năm chia ra làm 6 mùa. Từ 16 tháng giêng đến 15 tháng 3 là mùa ít nóng. Từ 16 tháng 3 cho đến 15 tháng 5 là mùa nóng nhất. Từ 16 tháng 5 cho đến 15 tháng 7 là mùa mưa. Từ 16 tháng 7 cho đến 15 tháng 9 là mùa tạnh. Từ 16 tháng 9 đến 15 tháng 11 là mùa ít lạnh. Từ 16 tháng 11 đến 15 tháng giêng là mùa thật lạnh. Giáo lý của Đức Như Lai chia ra làm 3 mùa. Từ 16 tháng giêng đến 15 tháng 5 là mùa nóng. Từ 16 tháng 5 cho đến 15 tháng 9 là mùa mưa. Từ 16 tháng 9 đến 15 tháng giêng là mùa đông. Hoặc cũng có nơi gọi 4 mùa, gọi là xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân có 3 tháng. Gọi là tháng Đản La, tháng Phục Khá Xứ, Kỳ Sắt Ngỏa. Những tháng này từ 16 tháng giêng đến 15 tháng tư. Mùa Hạ có 3 tháng, đó là tháng Loại Sa Trà, tháng Thất La Phiệt Nô, tháng Bà La Bát Đa. Những tháng này từ 16 tháng 4 đến 15 tháng 7. Mùa thu có 3 tháng. Đó là tháng An Ổn Thần Phố Xà, tháng Ca Sắt Vệ Ca, tháng Vị Già Thỉ La. Những tháng này từ 16 tháng 7 đến 15 tháng 10. Trong ba tháng mùa đông gồm có: tháng Vị Báo Xa, tháng Ma Khứ và tháng Loại Lặc Thê Nô. Những tháng này từ 16 tháng 10 đến 15 tháng giêng. Cho nên Tăng tín đồ của Ấn Độ theo lời Phật dạy, họ có hai mùa an cư. Hoặc trước 3 tháng hoặc sau 3 tháng. Trước 3 tháng có nghĩa là từ 16 tháng 5 đến 15 tháng 8. Sau 3 tháng có nghĩa là từ 16 tháng 6 cho đến 15 tháng 9. Chữ Tiền được dịch nghĩa theo Kinh luật hoặc gọi là một Tọa Hạ hay một Tọa Lạp (một tuổi đạo). Đây là những tục lệ cổ. Chẳng giống với Trung Quốc về âm vận hoặc phương ngôn khi chuyển dịch ra như vậy. Cho nên sự nhập thai của Đức Như Lai cũng như Đản Sanh, Xuất Gia, Thành Phật, Nhập Niết Bàn, ngày giờ đều có sự sai khác. Nguyên nhân như sau.
Phàm chỗ ở, làng mạc, thành ấp cho đến phố xá, thị thành, do trải qua địa bàn mà tạo nên đường xá rộng hẹp. Có người ở chỗ cao ráo đẹp đẽ. Có người ở chỗ ô uế tạp cư. Những kẻ sống bên ngoài đi đứng qua lại thành phải trái. Từ chỗ ở đó chế tạo ra những công việc thành thục. Do địa thế và khí hậu khác nhau mà thành. Cho nên làm tường hoặc bằng tre gỗ hoặc bằng những loại gạch nhiều hồ than. Tất cả những khác biệt đó ở trong mùa hạ. Những loại bằng cỏ bằng mây tạo nên những tấm thảm để trang sức trên những bức tường bằng đá bằng than. Dưới đất có trải phân bò cho là sạch, có lúc rải hoa lên đó; nên có điều khác lạ. Mà ở các chùa thường không làm như vậy. Các chùa thường làm 4 lầu 3 từng. Trên nóc có đòn dông chạm khắc nhiều hình tướng. Trên tường có những bức hoạ đồ nhiều màu sắc khác nhau mà thứ dân thì không như thế. Phòng ở giữa cao lớn rộng hơn. Tầng thứ nhì có khắc các hình tướng không giống nhau. Cửa thường hướng về đông. Buổi sáng ngồi xoay mặt về hướng đông cho đến ngủ nghỉ thì dùng thằng sàng (giường dây) để ngủ.
Vua chúa, trưởng giả, thứ dân có sự khác nhau. Những sự trang sức có quy củ và không sai biệt mấy. Nơi chỗ ngồi của quân Vương thường cao rộng. Đặc biệt thường ngồi trên tòa sư tử, được làm bằng những loại trân bảo. Hàng trăm loại quý giá được điêu khắc khác nhau nơi y phục cũng như đồ mặc. Rõ ràng có sự sai khác rất nhiều. Phía người nam mặc đồ bao bọc chung quanh qua phía vai hữu. Người nữ mặc kín đáo hơn. Ở trên đầu có để tóc ngắn. Hoặc có dấu hiệu khác tục. Cổ thì choàng hoa tươi, thân hình thì đeo anh lạc. Đây là những y phục kiều diễm làm bằng vải và những đồ trân quý cũng như bằng lụa hoặc bằng vỏ cây. Cũng có khi bằng loại gai hoặc bằng vải cũng như lông dê. Những y phục đặc biệt được làm bằng lông thú. Lông chim đẹp cũng là một loại y phục trân quý vậy. Ở phía bắc Ấn Độ phong thổ lạnh lẽo nên y áo được chế biến khác hơn. Bên ngoài được mặc thêm nhiều áo khác nhau giống như lông con chim khổng tước hoặc trang sức những anh lạc. Hoặc chẳng để lộ hình. Hoặc lấy cỏ mây che thân thể. Hoặc cạo tóc hoặc bới đầu. Những loại thể như thế không có định hướng cũng như màu sắc khác nhau. Pháp phục của Sa Môn chỉ có ba y và Tăng Khước Kỳ cũng như Nê Thần Thử La. Ba y cũng được cấu tạo không giống nhau. Hoặc ngắn dài rộng hẹp, hoặc lớn nhỏ khác nhau. Tăng Khước Kỳ vai trái rộng, hai bên trái mở ra, bên phải đóng lại để bao bọc lên người. Nê Thần Thử La (Niết Bàn Tăng) không có dây cột giống như áo. Tất cả đều tính thành một bộ y mà mỗi bộ đều khác nhau, màu sắc vàng đỏ cũng không giống nhau. Sát Đế Lợi Bà La Môn sự ăn ở cũng khác nhau. Quốc vương đại thần ăn mặc đẹp lạ. Hoa cài tóc, cổ trang sức gồm nhiều đồ anh lạc để hoá trang. Trong ấy cũng có nhiều thương gia giàu có làm như vậy. Người người có nhiều khác biệt như tục nhuộm răng hoặc đỏ hoặc đen. Tóc, răng, tai, mũi mắt cũng đều làm đẹp như thế.
Tất cả cũng chỉ mục đích làm cho đẹp và trong sạch. Phàm ăn uống, trước tiên có tẩy rửa, phải dùng rượu và dùng những chén bát khác nhau. Cũng có dùng chén bát bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng. Ở trong những trường hợp ăn uống như thế tăm xỉa răng cũng cốt làm sạch. Nước súc miệng cũng không là điều chấp trước. Mỗi khi tắm rửa thường dùng hương thơm của lá cây hay bằng bột trầm, bột nghệ. Khi quân vương tắm thì âm nhạc trổi lên, ca hát tế lễ rất là hưyên náo.
Chữ nghĩa rõ ràng. Do Phạm Thiên chế ra gồm 47 chữ. Nhờ vào những vật hợp thành mà trở nên chuyên dụng. Rồi phát triển rộng ra. Đây là nguyên nhân vậy. Rồi từ đó người địa phương cải biến lại. Ngôn ngữ nầy sau nầy cũng có sự thay đổi từ bổn gốc mà lấy Trung Tâm Ấn Độ làm tiêu chuẩn, để điều hòa tiếng Phạn rõ ràng hơn. Vần đọc thanh cao lấy người làm quy tắc. Những nước khác lân cận cũng được giáo dục thành thục như thế. Có sự cạnh tranh muốn bảo toàn thuần phong mỹ tục. Cho nên trong những thơ văn lời nói vẫn còn tồn tại. Sử chép rằng gọi chung những điều như thế là Ni La Tế Trà. Tốt, xấu đều do nơi đây mà ảnh hưởng vậy, mà mở ra 12 chương tốt đẹp để chỉ đạo. Sau bảy tuổi thì lãnh thọ Ngũ Minh Đại Luận
- Một là Thanh Minh, giải nghĩa những chữ huấn dụ. Chú giải những mục sớ văn.
- Hai là Công Xảo Minh là những cơ quan kỹ thuật và lịch âm dương đối chiếu
- Ba là Y Phương Minh. Cấm chỉ những tà thuật về thưốc men có ngải bằng đá kim
- Bốn là Nhơn Minh, khảo sát việc chánh tà nghiên cứu tìm chơn ngụy
- Năm là Nội Minh, nghiên cứu về diệu lý nhân quả, ngũ thừa.
Đây là bốn luận Vệ Đà của Bà La Môn:
- Thứ nhất là Thọ, nghĩa là duỡng nuôi tánh thiện,
- Thứ hai là Từ nghĩa là tế tự cầu nguyện
- Thứ ba là Bình, nghĩa là lễ nghi binh pháp quân trận
- Thứ tư là Thuật, nghĩa là dùng y học để đối lại với những ma chú.
Vị Thầy bắt buộc phải nghiên cứu rộng rãi tinh vi ý nghĩa nầy. Để minh thị ý nghĩa dẫn đạo to lớn trong lời nói tế nhị. Đề cao những việc thiện khắc ghi vào danh bạ. Nếu mà ý thức được nhiều thì sẽ làm nguyên tắc sống rõ. Thành sự học nghiệp phải trải qua ba mươi năm. Lúc đó chí nguyện mới đạt thành. Mới có thể hưởng lộc đầu tiên về đạo đức của một vị Thầy. Cho nên đây là sự chiếm cứ tốt đẹp nhất của việc biết rộng vậy. Đây là sự biểu hiện của những vật bên ngoài chìm nổi thay đổi, đây là sự chịu đựng không sợ tai tiếng từ xa. Nếu nhà vua có tà vạy, chưa thể khuất phục được, nhưng vì việc nước là trọng thì phải thông qua tập tục cao sáng đó. Đồng thời cũng tán thành mệnh lệnh của long thể là trọng yếu. Cho nên có thể có ý chí mãnh liệt để học hỏi, quên đi những nghề nghiệp đi xa mệt mỏi. Sự tìm đạo phải nương theo lý lẽ nhân nghĩa không quá xa hơn ngàn dặm. Nhà tuy giàu mà có ý chí ra đi, đầu óc rõ ràng. Quý trọng để biết đạo chứ không xấu hổ để tham tài. Vui chơi đoạ nghiệp vào sự ăn mặc. Chẳng phải vì đức hạnh lại chẳng thực tập, vì sự sỉ nhục đến tạo nên tai tiếng cao xa, như giáo lý của đức Phật tuỳ loại mà được thành tựu. Đến Thánh quả của chánh pháp kia còn xa vời trách nhiệm nghe thấy giải thích đều do tâm nầy vậy. Nghe biết thực hành để được ngộ đạo. Chấp trước tranh luận để làm sáng tỏ. Những môn học chuyên môn khác làm cho thấy rõ sự sai biệt. Mười cõi, tám loài mỗi mỗi đều rõ ràng. Đại Thừa, Tiểu Thừa hai giáo đều có sự riêng biệt; nơi đây đều có sự yên tĩnh tư duy qua sự đi đứng nằm ngồi. Định tuệ lắng yên sự tranh tụng. Tùy theo điều nầy mà đại chúng được chế ra để phòng ngừa không thể cho rằng Luật Luận Kinh là kinh Phật
- Bộ thứ nhất, tuyên dương, không cần tri sự tăng
- Bộ thứ hai, tăng thêm tư liệu phòng ốc
- Bộ thứ ba, sai bảo thị giả cung kính phụng thờ
- Bộ thứ tư, cho người tịnh hạnh nhơn việc làm
- Bộ thứ năm, đi theo xe voi
- Bộ thứ sáu, dẫn đường theo sau.
Lấy đạo đức đầu nêu cao tánh mệnh, cho nên tập họp để khảo sát những giảng luận nầy về ưu khưyết điểm phân biệt thiện ác mà có đen trắng sáng tối. Trong nầy cũng có sự bàn bạc tế nhị để đề cao Diệu Lý. Những ngôn từ tốt đẹp cũng được triển khai. Đây là bảo tượng cao quý để chỉ đạo như vào trong rừng vậy. Cho đến ý nghĩa hư vọng cũng được chỉnh đốn. Lý giải rõ ràng, nghĩa lý phù hợp với lời nói, tức tùy theo sự hợp nhất giống như đất ở trên tường. Hoặc giả, phải ở nơi tịch tịnh để biểu hiện tánh hiền thuận. Người ta biết rằng vui theo niềm đạo là điều được khuyến thỉnh để học hỏi. Người xuất gia trở lại đời cũng được gọi là tốt. Tuy nhiên khi còn ở trong Tăng bị phạm luật thì phải bị phạt. Không thể khinh xuất mệnh lệnh của chúng tăng được. Lại ở trong chúng không được nói, cũng không được cùng chúng ở chung, không được cùng chúng ăn cơm, đi ra khỏi trụ xứ phải sống biệt trụ, để phản tĩnh lại việc làm sai trái đầu tiên của mình. Nếu mà nói về chủng tộc có bốn loại như sau:
- Thứ nhất, Bà La Môn, là những kẻ tịnh hạnh, giữ đạo trinh khiết, tiết tháo.
- Thứ hai, Sát Đế Lợi, là những kẻ nắm vương quyền, là những bậc nhân chủ trong đời, lấy nhân đức làm chí nguyện
- Thứ ba, Phệ Xá, là những kẻ buôn bán làm giàu do sự buôn bán gần xa.
- Thứ tư, Thủ Đà La, là những kẻ nông dân, đem sức lực của mình siêng năng làm việc nhà cửa. Phàm tất cả đều do bốn chủng tộc nầy mà lưu hành.
Về việc hôn phối thì không được vượt qua những giai cấp đó. Nội ngoại gia tộc được cấu thành không phức tạp, người lấy chồng không được tái giá. Nếu không sẽ bị khai trừ ra khỏi tộc đó. Mỗi chủng tộc đều có mỗi tục lệ khác nhau, khó có thể tường lãm hết. Quân Vương trị thế ở đời chỉ có dòng Sát Đế Lợi. Họ được xưng là cao quý trên các tộc khác; nhưng lính tráng của nước nhà được tuyển chọn khác nhau. Cha con chuyên nghiệp cùng theo binh thuật, ở nơi cung điện để phòng vệ. Ra đi chinh phục được cử đi trước. Phàm trong bốn loại binh, thì có bộ binh, mã binh, xa binh và tượng binh. Voi được điều khiển bởi những người nài, một tướng ngồi lên đó, hai bên tả hữu có quân lính đi theo ngự giá gồm xe tứ mã. Binh tướng theo hầu, cận vệ hai bên để phù trợ xe vua. Quân cỡi ngựa chia ra hộ tống. Phía bắc quân đi bộ là những kẻ dũng sĩ được tuyển chọn cầm theo giáo mác dài và giữ những dao kiếm đi kề. Phàm những khí cụ như thế đều được vót nhọn. cũng gồm có cung tên, dao kiếm, búa lớn, búa nhỏ, giáo mác dài cùng theo xe . Tất cả đều để biểu dương uy thế. Phàm làm như vậy là tục lệ, biểu hiện tính chất mạnh mẽ cấp thời chiếm lĩnh, không được cẩu thả, để có nghĩa là bảo hộ. Nếu không thì phải bị tội khinh thường sự sống là nghiệp vậy. Ngụy trang những việc làm ấy để trở thành ngụy tín. Chính sách giáo dục phong tục phải điều hòa tốt xấu. Những kẻ hung dữ bị luật pháp quốc gia trừng trị. Có ý mưu hại làm nguy đến Quân Vương, làm chướng ngại v.v..những việc như thế đều bị hình phạt. Vì sự sanh tử chẳng kể nhân luân. Phạm vào lễ nghĩa nghịch lại trung hiếu bị xẻo mũi, cắt tai, chặt tay, và chặt chân. Hoặc đuổi ra khỏi nước. Hoặc phóng thích nhưng bị phạm vào tội ăn cắp tài sản, đa phần bị ở tù cũng như những hình phạt khác, tùy theo vấn đề mà đối sách sự việc để giải quyết. Nếu kẻ phạm tội quá sức mà muốn làm rõ sự thật thì phải theo án lệnh. Trong đó có bốn điều: dùng nước lửa để trị tội, tội nhân bị bỏ vào nước cùng với đá, khi chìm rồi, nhận sâu xuống mới biết đúng sai. Khi chìm rồi, lấy đá đè lên phạm nhân. Nếu người nổi đá chìm không ổn. Dùng lửa bằng cách đốt cột đồng để tội nhân leo lên đó. Hoặc đốt nơi chân để hỏi cung. Hoặc đưa vào lưỡi. Nếu không có tội không sao, nếu có thì bị tổn thương. Có bị thương tích hay không do sự thật hư mà có. Kẻ nhu nhược không chịu nổi lửa cháy mạnh. Cây chưa phát hoả, thì sẽ bị cháy sém. Kẻ thật hư sẽ bị hoa lửa kia đốt cháy. Đây gọi là người bị đá đe nặng nhẹ. Kẻ hư ngụy sẽ bị đá đè lên người. Độc thủ hơn là cho một con dê mang đá đến chỗ tra khảo và người bị kiện cho uống thuốc độc, kẻ xử phạt bắt người đó phải chết. Kẻ hư ngụy sẽ bị chất độc làm hại. Đây là đơn cử bốn điều đã nói để phòng hờ trăm việc trái.
Cho đến nghi thức cung kính cũng có chín nghi lễ. Thứ nhất là nói lời an ủi. Thứ hai là cúi đầu cung kính. Thứ ba là giơ tay cao chào. Thứ tư là chắp tay ngang ngực. Thứ năm là quỳ gối. Thứ sáu là chân để duổi ra. Thứ bảy là tay duổi thẳng ra đất. Thứ tám là năm luân đều cong. Thứ chín là năm vóc đều gieo xuống đất. Phàm chín việc này đều phải cung kính. Đây là cái đức cao cả, tận lực cung kính tán thán. Về phía xa hơn nữa thì phải cúi đầu chấp tay. Về phía gần thì chân phải quỳ gối. Phàm nói năng phải nương vào lệnh trên. Tôn trọng bậc hiền thánh, thọ nhận sự lễ bái tất có sự an ủi. Hoặc cọ sát nơi đầu. Hoặc vỗ về nơi lưng. Lời nói diệu hiền mẫn cảm hướng dẫn minh thị chỗ thân thiết nồng hậu. Xuất gia làm Sa Môn được thọ nhận sự kính lễ. Chỉ có thêm nguyện tốt không dừng lại sự lễ bái. Tùy theo công việc của Tông môn có nhiều khác biệt. Hoặc chỉ một lần. Hoặc hai ba lần. Tâm niệm ấy do sự cầu thỉnh riêng mà được.
Phàm khi gặp bệnh nhịn ăn bảy ngày trong thời kỳ đó sẽ có thuyên giảm. Nếu chưa hết mới dùng đến thuốc than. Tên của những loại thưốc thì không giống nhau. Đây là công vệc của y khoa chiếm lĩnh có sự khác nhau. Cuối cùng khi chết đi thì đều nhỏ lệ. Người thân cạo tóc để ngực, áo quần được chế tạo để mặc cư tang thì không hạn định. Khi tống tán nghi lễ có ba loại. Thứ nhất là hoả táng, dùng củi để thiêu. Thứ hai là thủy tán, cho dìm xuống nước để trôi đi. Thứ ba là dã táng, nghĩa là cho xác vào rừng cho chim ăn. Khi Quốc Vương băng hà đầu tiên lập một ban tổ chức cho tang lễ, rồi phân chia trên dưới. Khi sống lấy đức làm đầu. Khi chết không còn kiêng cử nữa. Những người nhà có tang thì không ăn uống. Sau khi tang lễ xong trở lại bình thường không kiêng kỵ. Những người đi đưa đám chết không sợ dơ hoặc tắm rửa bên ngoài rồi cho vào. Cho đến tuổi tác sống lâu hay chết sớm cũng thế. Khi sống không sợ mệt nhọc đắm chìm. Con thú khi lìa đời còn muốn trở lại nhân gian. Sự sanh tử nặng nhẹ hy vọng vào con đường phía trước. Cho nên người thân thuộc phải biết tạo nên niềm vui bằng tiệc rượu. Hoặc đánh trống thổi kèn để thêm sức. Kẻ trung lưu cũng được sanh thiên. Trong mười cõi ấy một cõi này cũng chưa thấy được. Kẻ xuất gia làm tăng không bị quy vào đây. Khi cha mẹ mất tụng niệm để nhớ ơn. Xa hơn là cầu việc phước đức. Giữa chính trị và tôn giáo có những điều cũng giản đơn. Nhà nào chẳng có gia phả thì người đó chẳng có thay đổi quá trình. Trong đất đai của Vua chúa cũng chia ra làm bốn loại. Thứ nhất đất ấy nhà nước dùng để làm tế lễ. Thứ hai đất ấy ban cho các tể tướng triều thần. Thứ ba đất ấy thưởng cho những kẻ học cao tài rộng. Thứ tư đất ấy giống như ruộng phước điền cấp cho những đạo khác. Cho nên cũng có chế độ thuế má nặng nhẹ được kiểm soát bởi tỉnh. Mọi người trong đời có nghề nghiệp đều có đầy đủ cổ phần đất đai. Nếu là ruộng quý thì phải đóng một phần sáu thuế. Sự thương mại có lời qua lại cũng như sự buôn bán trước sau đều có thuế. Sự buôn bán giúp cho quốc gia giàu mạnh bắt buộc phải lao dịch. Đây là giá trị của sự thành công vậy. Trấn nhậm chinh phạt là do lính tráng. Số nhiều do mọi tộc và các huyện tuỳ theo người mà thưởng. Những người đầu ấp được cử ra để thâu thuế. Các nơi đều có phân chia đất đai cho việc ăn uống. Phong tục khác biệt, chỗ ở cũng như vậy. Hoa quả cây trái đủ loại khác nhau. như Am Mộc La, trái Am Nhi La, trái Mạc Đỗ Già, trái Phạt Đạt La, trái Kiếp Tỳ Hoá, trái A Mạc La, trái Chấn Đỗ Già. Phàm những loại như thế thật khó biết hết. Vì thấy lạ trên đời nên lược ghi như vậy thôi. Cho đến những loại cây khác của Ấn Độ cũng ít nghe tới như quả lê, quả đào, nho v.v... . Nước Già Hiển Nhi La cũng đã đến đây mang về trồng. Thạch Lựu Cao Kiều các nước đều có trồng. Tuỳ theo nhà nông mùa màng canh tác, để trồng tuỳ theo thời tiết mà có sự thay đổi. Đất đai nơi đây cũng trồng được nhiều lúa mạch. Rau cải cũng được trồng nơi có nước. Rau cỏ tuy ít nhưng không thiếu để dùng. Nhà có nhiều miệng ăn phải chia khu ra để canh tác. Cho đến sữa tươi, đường cát, mật ong, dầu và các thứ bánh cũng đều dư dả. Dê, nai và những loại quý cũng như voi, ngựa, chó, khỉ, sư tử, gà nhà v.v... . Phàm những loại động vật có lông thì vô số kể. Những người có tâm xấu hổ thường hay không làm những việc ác. Những kẻ ấy bị người đời coi thường ví như những kẻ uống rượu say sưa đều ít trân quý. Rượu nho cam thảo là những thứ dùng cho giòng Sát Đế Lợi uống. Rượu cúc và những loại rượu khác cũng như vậy. Sa Môn, Bà La Môn uống nước nho và nước cam thảo, không có nghĩa là uống rượu say. Có nhiều bộ tộc khác nhau cho nên không thể nói riêng biệt được. Họ dùng những đồ ăn uống đặc thù. Tùy theo đồ vật và thời gian mà có sự liên quan khi dùng đến mà không thể biết hết được; đa phần ly bằng đất ít dùng mà dùng loại đồng đỏ. Khi ăn, dùng một cái bát để hết thức ăn vào đó. Dùng tay bốc ăn. Cho đến khi già bệnh, họ vẫn dùng đồ bằng đồng.
Về những loại vàng bạc đá ngọc quý ở đất nước này có chứa chất rất nhiều. Có nhiều loại trân bảo khác nhau bằng đá quý. Lấy từ biển lên để bán. Vật để mua bán hàng hoá là vàng bạc cho đến những đồ quý giá. Trải dài cho đến biên cương của Ấn Độ cũng đều như thế. Phong tục có sai biệt nhưng đại lược là như thế. Tất cả đều cùng một khái niệm là nước ấy có nhiều chánh sách và phong tục khác nhau.
1) Nước Lam Bà, chu vi hơn ngàn dặm. Phía bắc giáp với Tuyết sơn. Ba bên có núi cao. Thủ đô hơn mười dặm có từ hơn 100 năm nay. Vương tộc không còn cho nên có sự cạnh tranh không có người đứng đầu. Trước đó lệ thuộc nước Ca Tất Thí. Ở đây có nhiều mía, cây rừng và những hoa quả khác. Khí hậu ôn hoà. Chỉ có sương nhưng không có tuyết, phong tục của nước này người ta hay vui với ca hát ngâm thơ. Ý chí tánh tình thì yếu đuối thường hay quỷ quái. Chẳng xuất hiện điều gì đặc biệt. Lễ nghi cử chỉ thô tháo. Mặc nhiều áo phải dùng màu trắng để trang sức. Già Lam hơn mười ngôi. Tăng tín đồ còn rất ít. Đa phần học tập theo Đại Thừa giáo. Ngoài ra hầu hết theo những đạo khác. Từ đây đi về phía đông nam hơn trăm dặm thì gặp núi cao, sông sâu; đến biên giới bắc Ấn Độ gặp nước Na Yết La Yết.
2) Nước Na Yết La Yết, đông tây hơn 600 dặm. Nam Bắc hơn 256 dặm. Núi non bao bọc chung quanh rất nguy hiểm. Đô thành chu vi hơn 20 dặm. Không có người cai quản cho nên trực thuộc Ca Tất Thí. Có nhiều lúa gạo và hoa quả. Khí hậu ôn hoà. Phong tục thuần chất, mạnh mẽ kiên cường, xem nhẹ tiền tài, ham học, sùng kính Phật Pháp. Ít có người theo Ngoại Đạo. Chùa tuy nhiều nhưng tăng tín đồ thì ít. Các bảo tháp bị hoang phế hư hoại. Những đền thờ của Đạo Giáo khác có 5 sở và hơn 100 người theo.
Thành phía Đông rộng 2 dặm, có bảo tháp cao hơn 300 thước do Vua Asoka kiến thiết, trên đá đặc biệt điêu khắc công phu. Lịch sử Phật Thích Ca, lúc còn là Bồ Tát gặp Phật Nhiên Đăng, đã trải tóc và áo phủ trên bùn để Phật đi, và được Phật thọ ký. Cho đến kiếp hoại, sự tích nầy vẫn không mất. Hoặc cũng có chạm những ngày lễ, trời mưa hoa cúng dường, người người quây quần tu phước cúng dường.
Ở phía tây Già Lam nầy, tăng tín đồ cũng ít. Phía nam có bảo tháp nhỏ. Ngày trước vùng nầy thuộc xứ Án Ni, Vua A Dục tránh con đường lớn nên làm con đường nầy.
Giữa thành có Bảo Tháp, nghe rằng đây có thờ Răng của Phật cao rộng trang nghiêm tráng lệ. Bây giờ không còn Răng nữa, chỉ còn Tháp thôi. Tháp cao hơn 30 thước. Tục lệ không cho biết Tháp nầy có tự bao giờ, nên không rõ. Tháp đứng trơ trọi chẳng còn ai ở đó nhưng rất linh thiêng.
Phía Tây Nam cách thành hơn 10 dặm có Bảo Tháp nữa. Nơi đây, đức Như Lai từ miền trung Ấn Độ đi du hoá đến nơi nầy. Không xa phía đông mấy, lại có một Bảo Tháp cũng theo truyền thuyết là nơi Bồ Tát ngày xưa gặp Phật Nhiên Đăng, mưa hoa cúng dường
Phía tây nam cách thành hơn 20 dặm, có một ngọn núi thấp. Ở đó có chùa, viện và tháp miếu đều làm bằng đá. Nhưng hiện tại vườn không nhà trống không có bóng dáng một người tu. Giữa đó có một bảo tháp cao hơn 200 mét. Tháp nầy cũng được Vua A Dục kiến tạo. Phía tây nam của Già Lam thật tiêu sơ vắng vẻ, gió thổi trốc vách tường. Phía đông tường đá ấy có một động lớn, nơi đây cũng là nơi ở của con rồng Cù Ba La. Qua cửa hẹp thì có một động khác tối hơn. Động đá nầy có nước ngọt nhiễu từng giọt. Tự nó biến thành Chơn Dung của Phật, tướng hảo đầy đủ trang nghiêm tự tại. Từ đó đến nay, ít có người thấy được, nhưng kẻ nào thấy được mà chí thành cầu thỉnh thì được cảm ứng; nhưng ánh sáng thấy được đó không lâu. Ngày xưa, khi Phật còn tại thế, con rồng nầy là kẻ chăn trâu muốn dâng sữa cho Vua, nhưng dâng không được, tâm sân khởi lên. Sau đó mang một đồng tiền vàng mua hoa cúng Phật, nên được thọ ký tại tháp nầy. Tái sanh làm con rồng ác ấy đã phá hại nước của Vua, rồi bị đập đầu vào đá mà chết. Chết rồi, đọa thành Đại Long Vương ở trong Động Đá nầy. Tâm tánh thay đổi muốn ra khỏi động và không dám làm ác. Tâm thiện khởi lên chiêu cảm đến Như Lai. Thương con rồng, ngài vận thần thông từ miền trung Ấn Độ đến nước nầy. Vừa thấy đức Như Lai, con rồng buông xả tất cả tâm độc, liền thọ giới không sát sanh, nguyện hộ trì Chánh Pháp và cung thỉnh đức Như Lai lưu lại Động nầy, các vị Thánh Đệ Tử cũng lưu lại nơi đây mà thọ nhận sự cúng dường của rồng. Nhân đó, đức Như Lai bảo rằng:
Như Lai sẽ vì người mà lưu lại hình ảnh, sau khi tịch diệt ở nơi nầy. Và lúc nào cũng có năm vị A La Hán ở tại đây để thọ nhận sự cúng dường của ngươi cho đến khi Chánh Pháp hoại diệt. Như có khi nào, ngươi khởi tâm sân hận, hãy xem ảnh của ta, với dáng từ bi, thì sân tâm của ngươi sẽ ngưng lại ngay. Khoảng giữa hiền kiếp nầy, vị Phật tương lai cũng có lòng bi mẫn thương ngươi mà lưu ảnh lại.
Ngoài cửa động có hai trụ đá. Một trụ đá bên trên có khắc dấu chân của đức Như Lai. Một trụ có hình luân xa và nơi đây phát ra ánh quang minh. Hai bên cửa động cũng có hình nầy, và có những phòng nhỏ làm bằng đá. Tất cả như những tịnh thất mà chư vị Thánh đệ tử Như Lai dùng làm nơi nhập định. Phía tây bắc của động có một ngọn tháp, đây là nơi mà Như Lai đi kinh hành.
Ở phía Nam tháp nầy có tháp thờ tóc và móng tay của đức Như Lai. Gần đó không xa, cũng có một tháp nữa, nơi mà Như Lai hiển dương Chân tông, nói về Uẩn, Xứ, Giới. Phía tây động có ảnh, có một tảng đá lớn. Nơi đây Ca Sa của Như Lai được giặt, hình ảnh ấy vẫn còn hiển hiện.
Cách thành về phía Đông Nam hơn 30 dặm, đến nước Uẩn La Thành chu vi 45 dặm, kiên cố hiểm trở. Có rất nhiều hoa, trái, cây rừng, ao hồ. Người sống ở giữa thành, đều thuần lương, chánh tín. Có nhiều bức hoạ rất đẹp trên lầu, nhà. Có tháp nhỏ ở tầng hai làm bằng 7 báu, an trí xương đầu của đức Như Lai, xương nầy dài 1.2 tấc cũng có thờ mấy sợi tóc, phát ra ánh sáng. Ánh sáng nầy màu vàng và trắng, rất linh thiêng. Ở giữa tháp nầy, chiếu sáng như gương, nhìn vào đó thấy được sự tốt xấu của mỗi người. Mùi hương xông lên thấu tận xương tủy, tùy theo phước đức mà sự cảm ứng giao cảm với nhau. Trong tháp ấy, cũng có một bộ xương đầu của Như Lai, phóng quang màu sắc vi diệu, an trí chỗ thật là trang nghiêm.
Cũng có một tháp nhỏ khác bằng bảy báu, an trí xá lợi mắt của Như Lai. Tròng lớn như quả Nại, phát ra ánh sáng vi diệu, được an trí nơi cao quý. Y hoại sắc của Như Lai cũng được an trí một cách trang trọng ở nơi đây vẫn còn nguyên vẹn chưa bị hư hoại. Có cây tích trượng của Như Lai bằng gỗ Bạch Đàn, màu thiếc bạc nữa. Gần đây có một vị vua được nghe những bảo vật nầy, muốn lấy dùng, đem quân sang uy hiếp để mang về. Nhưng khi mang về đến nước, an trí những bảo vật ấy trong cung điện chưa bao lâu thì đã mất rồi. Khi biết ra, thì bảo vật đã quay trở về chỗ cũ. Năm thánh vật ấy có những mầu nhiệm khác nhau, cho nên Vua Ca Tất Thí cho năm người tịnh hạnh mang hương hoa đến cúng dường và gìn giữ như là Như Lai vẫn còn tại thế, chưa an nghỉ. Tuy nhiên, năm người tịnh hạnh nầy không chỉ muốn như thế mà còn đem tiền mướn người trông nom, và đặt ra một số điều lệ phức tạp khác đại để như là:
Ai muốn chiêm ngưỡng Xá Lợi của Như Lai, phải nộp một đồng tiền vàng. như muốn chiêm nguỡng hình ảnh Như Lai, nộp năm đồng.
Những điều lệ nầy tự đưa ra và mọi người phải chấp thuận.
Tòa lầu phía bắc cũng có Bảo Tháp cao lớn và linh thiêng vô cùng. Ai chỉ cần dùng tay chỉ có thể chấn động ngay, làm cho linh reo. Từ đây đi về phía đông nam hơn 500 dặm đến nước Càn Đà La.
3) Nước Càn Đà La, đông tây hơn ngàn dặm, nam bắc hơn 800 dặm. Phía đông giáp sông Tín Độ. Đô thành là Bố Lộ Sa Bố La, chu vi hơn 40 dặm. Vương tộc bị tuyệt tự cho nên lệ thuộc nước Ca Tất Thí. Làng mạc tiêu sơ, dân cư thưa thớt. Trong cung thành chỉ hơn 1000 gia đình. Gạo thóc nhiều, rau quả, cây trái cũng thế, có nhiều mía. Nơi đây người ta sản xuất đường phèn. Khí hậu ôn hoà chẳng có sương tuyết. Tánh người tiêu cực, rất thích nghệ thuật, tôn kính ngoại Đạo, ít có tín tâm với Chánh Pháp. Dù là một nơi nằm gần biên giới Ấn Độ, nhưng từ trước tới nay, các vị luận sư Ấn Độ như Bồ Tát Vô Trước, Bồ Tát Thế Thân, Pháp Cứu, Như Ý, Hiếp Tôn Giả v.v.. đều sanh ra ở nơi nầy. Có khoảng 1000 Tăng Già Lam, nhưng nhiều ngôi bị hoang phế điêu tàn. Các bảo tháp cũng bị đổ nát. Có hơn 100 nơi thờ tự của các đạo khác, việc ăn ở rất tạp nhạp.
Vương thành phía đông bắc, một đài kỷ niệm được xây dựng để thờ bình bát của đức Phật. Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, bình bát của ngài trở về nước nầy. Hơn 500 năm nay, các nước luân phiên nhau mượn để thực hiện nghi thức cúng dường của đức Phật.
Ngoài thành Ba Lợi Tu về phía đông nam cách 89 dặm. có cây Tất Bát La cao hơn 100 thước cành lá sum sê, tàng cây rậm rạp. Có bốn vị Phật trong quá khứ đã ngồi dưới cây nầy, hiện tại cũng có bốn vị Phật ở đây, và trong Hiền kiếp nầy sẽ còn có 996 vị Phật ngồi nơi đây, cho nên nơi đây được gìn giữ cẩn mật và rất thiêng liêng.
Nơi đây đức Như Lai ngồi quay về hướng Nam nói với ngài A Nan rằng:
Sau khi ta diệt độ 400 năm, có một vị Vua ra đời tên là Ca Nị Sắc Ca, xây dựng một ngôi bảo tháp cách đây không xa về phía Nam để thờ rất nhiều Xá Lợi của ta.
Phía Nam gốc cây Bồ Đề, có một Bảo Tháp. Tháp nầy do Vua Ca Nị Sắc Ca xây dựng vào khoảng 400 năm sau Phật diệt độ. Nhà Vua đã là người thống nhất sơn hà nhưng không tin tội phước, khinh thường Phật Pháp. Một hôm đi săn rượt theo một con thỏ trắng, Vua gặp một cậu bé chăn trâu ngồi dưới gốc cây đang chơi, xây một tháp nhỏ. Vua hỏi:
- Con làm gì thế?
Cậu bé đáp:
- Ngày xưa, đức Thích Ca Mâu Ni là bậc Thánh trí có huyền ký rằng sẽ có một vị vua ở xứ nầy xây tháp phụng thờ Xá Lợi của ngài. Biết đâu chính ngài cũng có tên trong số những người đức lớn ấy. Vì có nhờ phước đức lớn người mới được làm Vua. Cho nên hôm nay con đã nhắc lại để Ngài biết.
Nói xong liền biến mất. Vua nghe rất vui mừng nghĩ rằng tên của mình là Đại Thánh đã được huyền ký. Nhân việc nầy, phát chánh tín, tôn trọng Phật Pháp.
Bên cạnh tháp nhỏ đó, ngài dựng nhiều tháp đá và khắc ghi tất cả những công đức trên tháp. Tuỳ theo số lượng mà khắc từ tháp cao 3 tấc cho đến cao 400 tấc. Dấu vết nầy còn trơ lại chu vi hơn một dặm rưỡi. Có tháp đến 5 tầng, cao hơn 150 tấc. Trong đó cũng có nhiều tháp nhỏ.
Nhà Vua nhân đó mà làm tháp chúc thọ. Trên đó, có khắc nhiều bánh xe bằng vàng và bằng đồng ở tầng thứ 25. Nơi đây cũng có an trí Xá Lợi của Như Lai, và là nơi thực hành nghi thức cúng dường tu phước.
Khi Vua xây xong tháp nầy, thấy phía đông nam có nhiều tháp nhỏ không vừa ý mọc lên, ra lệnh đập cho thấp xuống chỉ còn phân nửa, hai tầng mà thôi. Bỗng nhiên xuất hiện một tháp nhỏ nữa, nhà Vua than rằng:
- Ô! Có phải do vô minh mà khó khăn như vầy. Hay là Thánh Linh không đồng ý.
Vua tạ lễ ra về. Cái bảo tháp thứ hai nầy cho đến bây giờ vẫn còn. Ai có bệnh tật đau yếu, mang hương hoa đến cầu nguyện, thì hết bệnh.
Về hướng đông của Đại Tháp, có hai bảo tháp bằng đá nữa. Một cái cao ba thước, một cái cao năm thước. Hình dáng hoàn toàn giống như tháp kia. Cũng có hai tượng Phật, một tượng cao bốn tấc, một tượng cao sáu tấc. Dưới cây Bồ Đề có tượng Phật kiết già. Khi ánh sáng mặt trời chiếu, sắc vàng hiện lên trên đá rồi chuyển sang màu xanh cam. Những bậc kỳ cựu cho biết:
Hơn 100 năm trước, đá nầy có màu vàng óng ánh, có những đường vân đá lớn cỡ như lóng tay, những đường vân đá nhỏ cỡ hạt lúa mạch. Tất cả đều hiện lên trên mặt đá, có lúc hiện màu kim sa. Bức tượng bây giờ vẫn là tượng ấy.
Phía Nam Đại Tháp kia có một bức tượng Phật họa cao 1m6 gồm có hai phần rõ rệt, từ ngực lên trên và từ ngực xuống chân. Ngày xưa có một người nghèo sống bằng nghề làm thuê, có được một đồng tiền vàng, nguyện hoạ tượng Phật, đến Tháp nầy nói với người họa sĩ rằng:
Tôi muốn có một bức hình đức Như Lai đầy đủ diệu tướng, nhưng tôi chỉ có một đồng thôi. Tâm tôi muốn vậy có được không?
Người họa sĩ biết tâm người ấy chí thành nên chẳng nói giá cả chỉ hứa họa cho mà thôi. Trước đó cũng có một người khác đưa ông cũng chỉ có một đồng tiền vàng, nhưng yêu cầu họa một bức tượng Phật. Người họa sĩ nhận cả hai đồng tiền mà chỉ họa có một tượng Phật thôi. Khi bức tượng họa xong, cả hai người nghèo cùng đến lễ bái. Người họa sĩ chỉ vào bức tượng nói với hai người cùng một câu nói:
- Đây là bức tượng Phật mà tôi họa cho ông.
Hai người rất ngạc nhiên nhưng không nói ra. Người họa sĩ hiểu được tâm của hai người nói rằng:
- Sao mà tư lự vậy? Phàm tôi nhận của ai một việc gì, tôi không bao giờ thiếu một hào một ly. Nếu lời nói của tôi không dối trá, thì bức tượng sẽ biến hoá.
Nói chưa dứt, bức tượng đã hiện ra nhiều điều linh dị, phân thân qua lại, ánh sáng rực rỡ. Hai người cảm phục sinh tâm hoan hỷ.
Phía Tây Nam Đại Tháp, hơn 100 dặm đi bộ, có một tượng Phật bằng đá trắng cao một thước tám, mặt hướng về phía Bắc, linh thiêng vô cùng, thường phóng hào quang. Có khi người ta thấy tượng đi kinh hành nhiễu tháp vào ban đêm. Gần đây, bọn cướp muốn vào ăn trộm bức tượng, nhưng bức tượng đứng lên nghinh tiếp chúng, làm cho chúng hoảng sợ rút lui. Tượng bèn ngồi vào vị trí cũ. Nhờ vậy, bọn đạo tặc cải tà qui chánh đi khắp xóm làng kể cho mọi người đều biết chuyện nầy.
Hai bên Đại Tháp, mỗi bên có một Bảo Tháp nhỏ, phát ra ánh sáng màu, trăm loại óng ánh rất đẹp. Có tượng Phật trang nghiêm, điêu khắc vô cùng công phu. Có hương thơm, có âm thanh khác nhau thường nghe rất rõ. Có những vị tiên, những bậc Thánh Hiền, cũng thấy họ đi nhiễu Tháp. Tháp nầy Như Lai đã huyền ký sẽ có bảy lần hư hoại, bảy lần tái tạo tu bổ thì Chánh Pháp mới diệt tận. nhưng người ta cho biết tháp đã bị hoại đến ba lần rồi. Lần đầu bị cháy, bây giờ tu sửa lại đẹp đẽ, sau nầy sẽ hoàn thành.
Phía Tây của Đại Tháp, có Già Lam do vua Ca Nị Sắc Ca kiến lập. Chùa có nhiều tầng làm nơi để cung thỉnh chư tăng về cúng dường tạo phước. Nhưng Tăng tín đồ càng ngày càng giảm thiểu. Phần nhiều tu theo Tiểu Thừa, tự xây dựng Chùa Viện; nhưng đức độ của chư vị luận sư, hoặc bậc chứng Thánh quả như những luồng gió mát thổi đến với họ không bao giờ tận.
Trên tầng ba có thờ ngài Hiếp Tôn Giả. Phòng ấy lâu nay bị nghiêng nhưng vẫn còn đứng.
Ngài Hiếp Tôn Giả thuộc dòng dõi Phạm Chí. Năm 80 tuổi mới xả tục xuất gia. Lúc bấy giờ trong thành, trẻ mục đồng hát nghêu ngao rằng:
- Ông già ngu ơi, có biết không? Phàm người xuất gia có hai việc làm, một là thực tập thiền định, hai là tụng kinh, nhưng mà ông đã già rồi, làm được việc gì hay là chỉ biết ăn thôi?
Nghe nhạo báng như vậy, Hiếp Tôn Giả rất lấy làm cảm tạ mà phát nguyện rằng:
Cho đến khi nào còn chưa thông Tam Tạng, chưa ra khỏi ba cõi, chưa chứng lục thông, chưa đủ tám giải thoát, thì chưa ngồi.
Từ đó về sau, suốt ngày đêm không ngủ, chỉ chuyên lo việc nghiên cứu kinh sách, dù đi, đứng, ngài luôn luôn tư duy giáo điển. Ban đêm tu thiền chỉ quán. Trải qua ba năm, Ngài thông cả Tam Tạng, chứng được trí tam minh, ra khỏi ba cõi, người người kính nguỡng. Do vậy ngài hiệu là Hiếp Tôn Giả.
Từ chỗ Ngài Hiếp Tôn Giả đến phía đông, có một phòng thất, nơi đây ngài Thế Thân đã lưu trú và sáng tác luận Câu Xá, được người đời cung kính và nguỡng mộ.
Phòng của ngài Thế Thân, ở phía Nam cách 50 dặm, ở tầng hai. Cùng với luận sư Như Ý sáng lập ra Tỳ Bà Sa Luận ở nơi nầy. Ngài sanh ra sau Phật nhập Niết Bàn 1000 năm, lúc nhỏ ham học, có tài biện luận. Vì nghe Pháp Phật hay, nên bỏ tục quy Tăng. Khi đó đến nước La Phiệt Tất Đệ, gặp Vua Tỳ Ngật La Ma A Dật Đa, uy phong của Ngài ảnh hưởng rất nhiều ở xứ Ấn Độ, mỗi ngày Vua cấp 5 ức tiền vàng để thí cho những người nghèo khổ cô độc. Vì thiếu hụt, nên vị đại thần giữ kho của nước đó rằng:
"Uy thế của đại vương thật là cao cả, ảnh hưởng cho đến côn trùng, nhưng tăng lên năm ức đồng tiền vàng thì thiếu hết bốn. Trong kho không còn gì, chỉ còn đánh thuế vào đất đai, vì sự nguy kịch đó cho nên hạ thần phải tâu lên và xin bệ hạ dụng ân để chu cấp. Hạ thần thật là bất kính" .
Nhà vua nói:
- Những gì còn trong kho để cho đủ không. Chẳng bằng nước "Cẩu Vi Thân Đa Ma" tiêu dùng.
Bèn thêm năm ức cho người nghèo. Sau đó đi thăm ruộng, tìm đuổi dấu tích con heo bị mất, và ai tìm được thì thưởng một ức đồng tiền vàng. Luận Sư Như Ý bảo người ta xuống tóc và một ức tiền vàng kia, Sứ thần của nước kia y đó mà niêm tải. Nhà Vua xấu hổ để thấy việc kia tâm thường theo khoái lạc. Muốn họ nhẫn nhục như luận sư Như Ý cho nên mới triệu tập hơn 100 người toàn là những bậc Cao Đức Thạc Học rồi ra lệnh:
"Muốn bắt được, họ phải đi ra khắp nơi để tìm tung tích. Ngoại đạo thì phức tạp làm cho họ quy về. Nên khảo tra những ưu khưyết để mà tôn thờ, cho nên tập trung lại để luận nghị. Điểm trọng yếu như sau. Những luận sư ngoại đạo và những anh tú. Sa Môn Pháp Chúng đều tôn việc lành và tuân chỉ đó. Kẻ nào thắng tức được tôn sùng trong Phật Pháp. Kẻ nào bại bị làm nhục nơi tăng đồ. Với ý nghĩa nầy đã yết cáo lên với ngoại đạo. Có 99 người đã thối lui. Còn một người không sợ khinh miệt như vậy, do vậy việc đàm luận trở nên kịch liệt sôi nổi. Nhà Vua và ngoại đạo đã ra tuyên ngôn:
"Lời nói của luận sư không mất, như có lửa thì ắt có khói, đó là lý sự bình thường thôi. Như Ý tuy là muốn như thế nhưng mà khó có thể không nghe thấy được. Xấu hổ để thấy rằng họ nhẫn nhục để bị cắt lưỡi cho đến sau đó viết thư khuyến cáo ngài Thế Thân rằng đối với người ngoại đạo đừng nên tranh luận ý nghĩa Đại Thừa, đối với kẻ mê, không nên biện luận việc chánh tà. Nói xong mà chết. Ở đó chưa lâu thì Vua bị mất nước. Cùng với nhà vua vận động tìm kẻ hiền tài. Bồ Tát Thế Thân muốn làm lạnh cái tâm xấu hổ cho nên mới đến thưa với vua rằng:
"Đại Vương là bậc Thánh Đức, quang giáng nơi đây làm bậc nhân chủ của sự hiểu biết trong thiên hạ. Vị sư Như Ý trước đây học hết nghĩa lý kinh điển, vị Vua trước đã giận vì người ta đưa danh của sư lên cao. Tôi tiếp theo việc làm nầy nghĩa là muốn nhắc lại oán xưa. Vị vua nầy vốn biết luận sư Như Ý là một triết gia. Nay Ngài Thế Thân muốn nói, hãy triệu những vị ngoại đạo như luận sư Như Ý, để cho Ngài Thế Thân nhắc lại ý chỉ trước đây. Rồi ngoại đạo cảm tạ lui ra.
Vua Ca Nị Sắc Ca ở phía đông bắc cách năm mươi dặm hơn có tạo dựng một ngôi Già Lam. Qua khỏi sông lớn thì đến thành Bố Sắc Yết La Phiệt Đệ. Chu vi của thành nầy 14,5 dặm. Những người ở đây đa phần ở trong động nối tiếp nhau. Cửa thành phía tây có một đền thờ Phạm Thiên, tượng Phạm Thiên uy nghiêm linh dị tương tục.
Phía đông của thành có một Bảo Tháp, do Vua A Dục kiến tạo, nhằm nơi Thuyết pháp của đức Phật quá khứ thứ tư. Thánh Hiền ngày xưa đều xuất thân từ miền trung Ấn Độ giáng sanh xuống nơi nầy không phải là ít. Tức "Phạt Tô Mật Đản Đa" Luận Sư (Thế Hữu, cũng còn gọi là Hoà Tu Mật Đa). Tại nơi đây, ngài đã vì chúng mà tạo nên bộ A Tỳ Đạt Ma Luận.
Cách thành phía bắc bốn dặm rưỡi thì có một Già Lam cũ vườn tược hoang phế tăng đoàn ít ỏi. Họ là những người tu theo Tiểu Thừa giáo. Tức Đạt Ma Đản La Đã Luân Sư (Pháp Cứu, cũng còn gọi là Đạt Ma Đa La). Ở nơi nầy, Ngài đã sáng tác ra Tạp A Tỳ Đàm Luận.
Ở phía chùa kia, có Bảo Tháp cao hơn 100 mét. Tháp nầy do Vua A Dục xây dựng. Chạm chữ trên gỗ và đá với những nhân công khác nhau. Đó là sự tích làm Vua ngày trước của đức Phật Thích Ca, tu khổ hạnh, từ sự mong muốn của chúng sanh mà bố thí không ngừng nghỉ, dù bị mất thân cũng không thay đổi. Nơi quốc thổ nầy, Vua đã sanh lại một ngàn lần, tức là Thắng Địa. Cũng có một ngàn lần xả mắt.
Từ nơi đây qua phía đông không xa, có hai bảo tháp bằng đá. Mỗi cái cao hơn một trăm thước. Bên phải có tượng Phạm Vương, bên tả có tượng Đế Thích. Đây là những trân bảo được trang sức. Sau khi Như Lai tịch diệt đá quý nầy cũng thay đổi. Nơi nầy càng ngày càng được tôn sùng.
Phía tây bắc của tháp Phạm Thích, hơn 50 dặm có thêm một bảo tháp nữa. Đây là nơi đức Thích Ca Như Lai vì hoá độ quỷ Tử Mẫu đừng làm hại người. Đây cũng là nơi phong tục của nước cúng tế cầu tự.
Từ phía bắc của Tháp quỷ Tử Mẫu nầy hơn 50 dặm lại có một tháp khác đó là Thương Một Ca Bồ Tát (Anh Ma Bồ Tát) cũng phụng duỡng nuôi cha mẹ mù. Tại nơi đây trong khi hái rau bị Vua đi tuần bắn lầm tên độc. Nhưng nhờ sự chí thành cảm linh cho nên chư Thiên cho thưốc. Nhờ nhiều phước đức mà không có việc gì xảy ra.
Từ chỗ Đông Nam, nơi Bồ Tát bị hại đến thành Bạt Lô Xa. Ở phía bắc thành cũng có một bảo tháp tên là Tu Đạt Noa Thái Tử. Vì lấy voi quý của phụ thân cho Bà La Môn cho nên bị đày qua nước Tẩn Cố Tạ. Khi ra đến cửa thành thì cáo biệt. Ở nơi nầy, Chùa Viện hơn 50 cái, chư Tăng theo phái Tiểu Thừa. Ngày xưa có luận sư Y Thất Phạt La (Tự Tại) ở nơi nầy mà tạo ra Luận A Tỳ Đạt Ma Minh Chứng.
Bên ngoài cửa phía đông của thành Bạt Lô Xa có một ngôi Già Lam, Tăng tín đồ hơn 50 người. Họ tu học theo Đại Thừa Giáo. Cũng có bảo tháp do Vua A Dục dựng. Nơi đây có tích Thái Tử Tu Đạt Noa bị đày vào núi Đãn Đa Lạt Già. Nơi đây đã được những người Bà La Môn cúng cháo.
Phía Đông Bắc của thành Bạt Lô Xa hơn 20 dặm là đến núi Đãn Đã Lạt Già. Ở trên đỉnh núi cũng có bảo tháp. Tháp nầy do Vua A Dục kiến tạo. Thái Tử Tu Đạt Noa đã trốn nơi nầy. Từ phía nầy chẳng xa cũng có một bảo tháp khác ghi lại nơi Thái Tử đã cho con trai, con gái của mình cho Bà La Môn. Người Bà La Môn đó đã đánh đập con trai con gái của Thái Tử ra máu, cho nên bây giờ cây cỏ ở đây cũng mang màu sắc ấy. Phía trên một hòn đá là nơi thực tập thiền định của Thái Tử và Vương Phi. Bên trong hang có cây cối rất là rậm rạp. Nơi nầy cũng là nơi Thái Tử đã ngừng bước vân du. Từ đây không xa mấy có một tảng đá. Tức là nơi cư trú của Tiên Nhân ngày xưa.
Phía tây bắc của Tiên Lô, đi hơn 100 dặm vượt qua một núi nhỏ thì đến núi lớn. Phía nam của núi nầy có một ngôi Già Lam, Tăng Tín đồ tương đối ít. Họ tu học theo Đại Thừa. Phía bên nầy cũng có một ngôi tháp do Vua A Dục dựng nên. Chuyện xưa kể rằng nơi đây khi xưa có một vị Độc Giác cư trú. Tiên nhân vì dâm nữ khưấy động cho nên mất thần thông, bị dâm nữ cỡi cổ mà trở lại đời cũ.
Phía đông bắc của thành Bạt Lô Xa, đi hơn 50 dặm thì đến núi cao. Núi nầy có một tượng đá xanh hình đức Quán Tự Tại với dáng người nữ. Cũng có Tỳ Ma Thiên Nữ. Nghe phong tục địa phương kể lại rằng, tượng Tự Tại Thiên nầy tự nhiên mà có, rất linh nghiệm do sự kỳ nguyện mà thành. Các nước tại Ấn Độ đến đây cầu phước và thỉnh nguyện. Giàu nghèo, xa gần tất cả đều đến đây để cầu nguyện và thấy được hình của Thiên Thần, khi chí thành không có hai niệm. Nhịn ăn bảy ngày thì sẽ được thấy. Sự cầu nguyện sẽ được thành công, dưới chân núi có một đền thờ đức Quán Tự Tại Thiên. Người Ngoại Đạo cũng có đền thờ ở đây để cúng tế.
Đền thờ Tỳ Ma Thiên từ phía đông nam đi đến 150 dặm đến thành Ô Trạch Ca Hán Trà. Chu vi của thành là 20 dặm. Phía Nam giáp với sông Tín Độ, người tại đây giàu có sung mãn, thường hay tích chứa tài sản, đồ quí vật lạ các nơi đều tập trung nơi nầy. Từ phía tây bắc của thành Ô Trạch Ca Hán Trà đi hơn 20 dặm, đến làng Bà La Đổ La. Đây là nơi sinh trưởng của Tiên Bà Nhi Ni, người đã chế ra Thanh Minh Luận. Là một văn học cổ đại có ảnh hưởng rất lớn. Trải qua kiếp hoại thế giới sẽ trở về Không. Các vị chư thiên có tuổi thọ sẽ giáng sanh vào Đạo Sĩ và Tục Nhơn. Do tích nầy mà có chuyện trên vậy. Từ đó về sau chuyện nầy được lưu truyền mãi. Phạm Vương Thiên Đế được thành hình là theo tục nầy. Các Đạo khác có các chư tiên chế ra chữ nghĩa. Con người do việc trước đã sắp đặt truyền lại, mà thành tập tục.
Các người nghiên cứu khó mà dùng biểu tượng để biết rõ ràng. Khi con người có tuổi thọ 100, có vị Tiên tên là Bà Nhi Ni khi sanh ra đã biết mọi việc, rất mẫn cảm. Muốn biết sự hư ngụy nổi trôi như thế nào liền ra đi đến hỏi Đạo, thì gặp Tự Tại Thiên. Sau đó thưa thỉnh thuật lại chí nguyện. Tự Tại Thiên bảo rằng: Tốt lắm ta đang chờ ngươi đây. Tiên nhân thọ giáo rồi lui. Sau đó nghiên cứu tinh chuyên tạo thành lời dạy, làm ra chữ nghĩa có trên ngàn lời tụng. Tụng đến 32 lần. Từ xưa đến nay tổng quát các văn tự vậy. Tánh cách cao cả cho nên vua chúa cũng trân quý. Vì vậy cho nên vua ra lệnh cho cả nước hãy phổ biến sử dụng lời thơ nầy. Có tụng đọc có lợi ích, phải thưởng một ngàn tiền vàng. Cho nên các Thầy giáo lúc bấy giờ rất thịnh hành. Cùng trong ấp nầy là những người Bà La Môn, là những bậc Thạc Học tài cao, biết rộng hiểu sâu, đã làm việc ấy. Ở giữa ấp Bà La Đổ La có một bảo tháp. Nơi Hoá thân của La Hán và sau nầy là của Tiên Nhơn Bà Nhi Ni. Sau khi Như Lai diệt độ năm trăm năm, có một vị Đại A La Hán, từ nước Ca Thấp Di La (Karmira) du hoá đến nơi nầy. Sau đó gặp một người Phạm Chí hỏi Đạo. Lúc ấy ngài A La Hán vì Phạm Chí mà hỏi:
- Khổ như thế nào?
Phạm Chí đáp:
- Ta học Thanh Văn luận nghiệp chẳng tiến bộ.
A La Hán nghe qua cười. Lão Phạm Chí bảo:
-Phàm là Sa môn, có tâm từ bi thương giúp tất cả muôn loài. Nay hãy lấy lòng từ để nguyện, nghe được việc nầy ngài nói cho.
A La Hán nói:
- Việc đàm luận không phải dễ dàng, sợ có nghi ngờ sâu. Ngươi hãy nghe đây! Tiên Nhơn Bà Nhi Ni chế ra Thanh Minh Luận để dạy cho đời phải không?
Bà La Môn nói:
- Là con của làng nầy đấy. Sau nầy vì lòng tin mà thiết lập nên tôn tượng nơi đây.
A La Hán nói:
- Nay người ở làng nầy tức là vị Tiên kia, phải dụ cho trí thức cao cả làm mô phạm cho đời. Tuy nhiên khi đàm luận với những luận khác thì không nghiên cứu chân lý. Cho nên thần trí bị hao tổn, lưu chuyển vậy. Phải biết việc thiện mà làm, nên ngươi phải yêu thương nó vậy. Từ đó, văn chương chữ nghĩa trong cuộc đời do công việc nầy mà tích chứa lại. Chẳng bằng với Thánh Giáo của đức Như Lai phước trí vô lượng. Như ngày xưa ở bờ biển Nam Hải, có một cây khô, có con rùa biển sống trong đó hơn 500 năm. Có các thương nhân dừng lại dưới cây nầy thời gặp gió rét, người người đói lạnh, mọi người họp lại đốt lửa cho ấm. Khói lửa nung lên dưới cây khô nầy. Trong những thương nhân đó, có một người ban đêm tụng A Tỳ Đạt Ma tạng, con rùa vì bị ngộp lửa rất đau đớn khi nghe được lời tụng đó rất thích nhưng không chịu ra khỏi, khi bị mệnh chung theo nghiệp thọ sanh, liền được thân người bỏ nhà đi tu. Nghe được pháp nầy thông minh lợi trí. Chứng được Thánh Quả, vì đời mà tạo phước điền. Gần đây là vua Ca Nị Sắc Ca và Hiếp Tôn Giả đã triệu tập năm trăm Hiền Thánh tại nước Ca Thấp Di La để tạo nên Tỳ Bà Sa Luận. Trong số đó cũng có vị tái sanh từ con rùa đã sống 500 năm trong bộng cây khô đó. Đây là một điều hy hữu, mà tốt xấu khó nói hết được. Nay vì nhà ngươi nhân vì thương con mà hứa cho đi tu. Công đức của việc xuất gia không thể tường thuật hết. Lúc ấy A La Hán nói lời nầy xong liền hiện các loại thần thông. Vị Bà La Môn phát sanh cung kính thâm hậu hoan hỷ lâu dài cho nên mới bảo những người chung quanh bỏ cả con cái xuất gia tu học. Từ đó sùng tín ba ngôi Tam Bảo. Người làng từ việc biến hoá đó cho đến nay vẫn còn truyền lại. Từ thành Ô Trạch Ca Hán Trà đi đến phía bắc, có núi và sông. Đi hơn 600 dặm, đến nước Ô Trượng Na.
LeGiang is offline  
Đã có 4 thành viên gửi lời cám ơn đến LeGiang vì bạn đã đăng bài:
hgurkquy03 (14-03-2016), imindykam (13-02-2023), JosephDora (21-11-2014), Randallfemn (07-07-2014)
Old 06-07-2007, 10:49 PM   #8
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 595 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default Quyển thứ ba

Quyển thứ ba
(8 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
1. Nước Ô Trượng Na
2. Nước Bát Lộ La
3. Nước Đản Hựu Thỉ La
4. Nước Tân Ha Bổ La
5. Nước Ô Sách Thi
6. Nước Ca Thấp Di La.
7. Nước Bán Nô Sai
8. Nước Yết Na Phược Bổ La

1) Nước Ô Trượng Na, chu vi năm ngàn dặm, núi non tiếp xúc với sông ngòi liên tục với nhau, tạo thành bình nguyên, cấy lúa trồng trọt nhưng đất đai không phì nhiêu. Nho rất nhiều nhưng mía ít. Thổ sản là nghệ. Có nhiều khoáng sản như: vàng bạc. Cây trái hoa quả rất nhiều. Gió mưa nóng lạnh điều hoà cho nên tánh tình phong tục của con người ở đó cũng thuần hậu, thích học hỏi nhưng chẳng tha thiết. Lấy chú thuật làm nghề nghiệp. Y phục đa phần làm bằng lông cừu trắng, nhưng không nhiều. Ngôn ngữ tuy khác nhưng đại để giống tiếng Ấn Độ. Chữ viết lễ nghĩa, phép tắc đều lấy Phật Pháp tôn sùng, tu theo Giáo Lý Đại Thừa. Có sông Lai Tô Bà Phạt Tốt Đổ. Ngày xưa có một ngàn bốn trăm ngôi Già Lam, hầu hết bị hoang phế. Trước đây, Tăng tín đồ khoảng 18 ngàn người, bây giờ giảm thiểu rất nhiều. Họ tu theo Đại Thừa, lấy Thiền định làm sự nghiệp. Thích tụng kinh văn, nhưng ít thấu hiểu nghĩa sâu. Giới hạnh tinh khiết, đặc biệt ưa chú thuật. Luật nghi truyền dạy gồm có năm bộ
1. Pháp Mật Bộ
2. Hoá Địa Bộ
3. Ẩm Quang Bộ
4. Nhất Thiết Hữu Bộ
5. Đại Chúng Bộ.
Đền thờ có hơn mười ngôi. Ngoại đạo ở hổn tạp. Cách thành nầy bốn dặm rưỡi, nhà Vua còn trị vì một thành khác tên là Tào Yết Phấn. Chu vi của thành mười sáu dặm bảy. Có người cư ngụ nơi đây. Từ phía thành Tào Yết Phấn cách phía đông bốn dặm rưỡi, có một Bảo Tháp rất thiêng liêng, ghi lại nơi Phật ngày xưa là tiên nhân tu nhẫn nhục. Nơi đây là nơi mà thân thể Vua Ca Lợi bị tổn hại.
Phía Đông Bắc thành Tào Yết Phấn đi hai trăm năm mươi sáu dặm thì vào núi lớn đến dòng suối Rồng A Ba La La. Dòng suối nầy là thượng nguồn của sông Tô Bà Phạt Tốt Đổ, chảy qua phía Tây Nam. Tuy mùa xuân mùa hạ nhưng vẫn còn tuyết về ban đêm. Tuyết rơi lóng lánh chiếu sáng. Thời Phật Ca Diếp, con rồng nầy sanh làm người, tên là Cạnh Thị, chuyên dùng chú thuật để ngăn Ác Long không cho làm mưa làm gió. Đời sống người dân trong nước được phồn thịnh, ai ai cũng cảm ân nhiều. Thuế nhà cửa chỉ là mười đấu thóc, nhưng càng ngày càng nhiều khó khăn, cho nên Cạnh Thị mới giận dữ mà nguyện trừ khử Độc Long, vì nó đã làm thương tổn đến mùa màng gia súc. Khi chết đi, nó biến thành con rồng ở Hồ nầy. Nước suối chảy màu trắng, làm tổn hại đến đất đai. Khi đức Thích Ca Như Lai còn tại thế vì lòng bi mẫn thương người ở nước nầy, nên giáng sanh nơi đây. Để hoá độ rồng nầy, thần Chấp Kim Cang quơ tích trượng Long Vương chấn động nên vội quy y, nghe Phật thuyết pháp, khởi tâm thanh tịnh, y giáo pháp tin hiểu. Như Lai bắt nó không được làm tổn hại đến dân chúng. Rồng thưa:
Phàm đã có đồ ăn, lại lấy ruộng và người. Nay vâng theo Thánh giáo nhưng sợ khó có đủ đồ chu cấp cho nên cứ 12 năm xin thâu đồ ăn một lần. Như Lai cũng còn thương cho nên hứa khả cho. Vì vậy cho nên xưa nay, cứ 12 năm là gặp một tai nạn tại dòng nước trắng nầy.
Từ phía Tây Nam suối rồng A Ba La La cách ba mươi dặm, trên bờ suối nước chảy phía bắc có một tảng đá lớn. Nơi đây có ghi lại dấu chân đức Phật. Do phước đức của mỗi người mà thấy bàn chân kia dài hay ngắn khác nhau. Đây là nơi Như Lai đã hàng phục con rồng kia rồi mà lưu lại dấu tích ấy. Người đời sau, thường hay góp nhặt đá ấy để làm nhà, xa gần đều mang hương hoa đến để cúng dường. Cách đây hơn 30 dặm có miếng đá để giặt y Như Lai. Bóng Ca Sa của Như Lai vẫn còn khắc ghi lại nơi đây. Phía Nam thành Tào Yết Phân hơn 400 dặm, đến núi Ê La. Nước phía tây chảy ngược lại phía đông. Có nhiều hoa trái khác nhau bị cuốn trôi vào đấy, nên rất nguy hiểm. Hoặc nghe được những âm thanh tiếng nói, hoặc nghe được tiếng dội của âm nhạc từ nơi những hòn đá cao như thác mà thành. Hai bên bờ có nhiều hang động. Đây là nơi Như Lai ngày xưa đã nghe được nửa bài kệ tụng mà xả thân mệnh. Từ phía Nam thành Tào Yết Phân đi hơn hai trăm dặm, có một ngôi chùa Ma Ha Phạt Na ở phía núi lớn. Nơi nầy ngày xưa Như Lai tu khổ hạnh, có tên là Vua Tát Phược Đạt của nước Tỵ Thích Khí đi đến đây, gặp người Bà La Môn nghèo từ phương xa đến xin ăn. Vua đã mất ngôi nên không có gì để cho, Vua bèn ra lịnh giết Vua đi để lãnh tiền thưởng.
Ở phía Tây Bắc dưới chân núi Ma Ha Phạt Na, có một Già Lam và cách hơn 34 dặm, lại có một Già Lam nữa cùng một Bảo Tháp cao hơn 100 thước. Từ phía nầy, có một hòn đá lớn trên đó có ghi lại dấu tích bàn chân của Như Lai, mà ngày xưa Phật đã ở tại hòn đá nầy, Ngài đã phóng hào quang chiếu đến ngôi chùa Ma Ha Phạt Na, mà vì mọi người chư thiên thuyết kinh Bổn Sanh. Dưới chân Bảo Tháp có một hòn đá, sắc màu vàng trắng, có chỗ trơn láng, đây là nơi Như Lai ngày trước tu khổ hạnh. Vì nghe Chánh Pháp mà nơi đây đã lấy xương cốt mình để chép kinh.
Phía tây ngôi chùa Ma Thâu, hơn 67 dặm, có một Bảo Tháp. Bảo Tháp nầy do Vua A Dục xây dựng. Nơi đây chính là nơi đức Phật tu khổ hạnh hiệu là Tỳ Ca Vương. Vì cầu quả vị Phật, mà đã tự sát bố thí thân cho chim.
Từ phía Tây Bắc của Đại Tháp, đi hơn hai trăm dặm vào nước Sắc Ni La Phiệt, sau đó đến nước Tát Ai Sát Địa. Lại có một Tăng Già Lam cũng có Bảo Tháp cao 80 thước. Nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã làm một vị Đế Thích, gặp lúc đói khát tật bịnh hoành hành. Y dược không phương cứu chữa, nhiều người chết chóc. Đế Thích sầu lo muốn cứu giúp, mới biến hình thành một con trăn lớn, nằm nơi hang đá và sông rạch. Người ta nghe đến giết con trăn để lấy thịt mà sống trừ bệnh tật đỡ đói khát.
Cách từ phía nầy không xa có một bảo tháp Tô Ma, nơi đây Như Lai ngày xưa đã làm Đế Thích lúc bệnh tật thương cảm các loài hàm thức mà biến thân thành một con rắn. Phàm ai ăn được thịt rắn thì đỡ đói khát.
Phía Bắc của sông Sắc Ni La Phiệt, có một hòn đá bên cạnh Bảo Tháp, mà những ai bệnh hoạn đến cầu xin đều được thưyên giảm. Như Lai ngày xưa đã làm con chim Khổng Tước Vương (con công).
Từ đây đến một nơi gọi là Tìm Cầu Nước Uống. Khổng Tước Vương đã đến bên bờ để tìm nước nơi suối chảy. Bây giờ nơi đây đã trở thành một cái ao, ai uống nước nầy vào tật bịnh tiêu trừ. Trên hòn đá vẫn còn dấu chân của Khổng Tước lưu lại.
Từ phía Tây Nam thành Tào Yết Phân đi hơn 67 dặm, có một con sông lớn và phía Đông có một Bảo Tháp cao hơn 60 thước, do vua trước đã kiến lập. Ngày xưa tương truyền rằng sau khi Như Lai diệt độ, ngài bảo đại chúng rằng: Sau khi ta nhập Niết Bàn, Xá Lợi của ta do Vua nước Ô Trượng Na phân chia. Nếu các vương tướng muốn có được, phải theo sự phân chia của vị vua nầy vậy. Lúc bấy giờ trời người và đại chúng đều tôn trọng tuyên dương và nguyện làm giống như lời của Như Lai. Sau khi phân chia rồi mang về nước họ. Tuỳ theo sự tôn sùng mà kiến lập nên Bảo Tháp.
Phía bờ sông nầy có một hòn đá lớn giống như con voi. Ngày xưa nhà vua đã cỡi tượng trắng nầy mà rước Xá Lợi về đến nơi đất nầy, con voi cúi đầu xuống. Do nguyên nhân nầy mà biến thành một hòn đá và ngay chỗ nầy đã xây dựng lên một Bảo Tháp. Phía Tây của thành Tào Yết Phân 50 dặm qua con sông lớn, đến Lô Ê Đản Ca, cũng có một bảo tháp, cao hơn 50 thước do vua A Dục kiến lập nên. Chính nơi đây đức Như Lai đã tu khổ hạnh vì đại quốc vương mà nói rằng:
- Ta dùng lòng từ, hãy lấy huyết thân ta để cứu cho năm con Dược Xoa.
Phía Đông Bắc thành Tào Yết Phân, cách 30 dặm hơn, đến Yết Bộ Đa Thạch, nơi đây có một Bảo Tháp cao 40 thước. Tại nơi đây xưa kia đức Như Lai đã vì trời người, thuyết Pháp khai đạo. Khi Như Lai đi qua, từ dưới đất nầy Bảo Tháp tự nhiên mọc lên. Do đó mọi người tôn kính mà đem hương hoa để cúng dường.
Phía Tây Bảo Tháp bằng đá kia, qua sông lớn cách 34 dặm, đến một tinh xá. Ở giữa tinh xá có thờ tượng A Phiệt Lô Kỳ Đệ Thất Phạt La Bồ Tát (Avalokitesvarsa Bồ tát Quan Thế Âm), rất linh thiêng và chiêu cảm. Tăng tục đều cúng dường không ngơi nghỉ. Phía Tây Bắc tượng Quán Thế Âm Bồ Tát cách 150 dặm đến núi Lãm Sắc Lô. Trên đỉnh núi cao kia có hồ rồng chu vi hơn 30 dặm. Sóng lớn giao thoa lưu xuất. Ngày xưa, Vua Tỳ Lô Thích Ca chinh phạt dòng họ Thích, có bốn người trong thân tộc phân thân để bay đi. Có một người trốn thoát đi đến giữa đường bị người khác bay đến chận lại.
Lúc bấy giờ có một người bay qua bay lại đùa giỡn phía trước, rồi bay lên, bay xuống trên bờ hồ. Vì đi quá xa và đến nước khác rồi nên Người dòng họ Thích không biết đường và thấy vậy chẳng biết làm sao nên vội vã núp dưới tàng cây. Lúc đó, có một thiếu nữ con Vua Rồng du ngoạn gần bờ hồ, thấy người dòng họ Thích sợ hãi lo lắng, liền biến thành người nữ, để người dòng họ Thích không sợ hãi nữa và nói rằng tôi đang tìm người thân, và nghi rằng đang ở nơi nầy nên đến đây. Cha mẹ tôi dặn phải đề phòng cẩn thận không được sai trái, nhưng tôi không muốn nghe lời.
Người dòng họ Thích nói:
- Núi rừng mênh mông mà hôm nay đến hồ nầy lại gặp Long Nữ. Tôi vì Thánh Tộc Lưu Ly mà đi tị nạn, mới trôi nổi đến đây. Nay gặp rồng nữa.
Long Nữ nói:
- Người và Vật không thể trao đổi với nhau bằng lời được.
Người họ Thích nói:
- Nghe chỉ một lời là thấy rõ nơi tâm rồi.
Long Nữ nói:
- Vừa nghe đã hiểu
Người dòng họ Thích phát thệ rằng:
- Tôi xin đem năng lực phước đức có được sang qua cho Long Nữ để biến thành thân người.
Nhờ phước lực nầy mà bỗng nhiên Rồng bèn biến thành người. Được thân người, Rồng rất vui mừng mà tạ ơn rồi nói:
Lâu nay, tôi bị trầm luân trong cõi ác, hôm nay thật là diễm phúc được phước lực gia tăng, thân đã đổi thay, ân nầy xin đáp đền, nghĩa nầy về sau sẽ hậu tạ. Tâm nguyện đáp đền bằng sự giao ước. Ta thưa với cha mẹ của ta về sau dùng lễ vật để trả ơn. Sau đó Long Nữ trở về ao thưa với cha mẹ rằng:
Con đi chơi gặp một người thuộc dòng họ Thích có nhiều Phước Lực đã cảm con thành Người. Hai chúng con đã thương nhau, con xin thưa thật.
Long Vương lòng rất vui, vì giữa mình và Thánh tộc có sự liên kết. Long Nữ thưa tiếp:
- Xin cha cho con được ra khỏi ao để tạ lễ người dòng họ Thích
Gặp người họ Thích nói rằng:
- Xin ngài hãy vì chúng sanh khác loại, chớ đừng vì tôn ty sang hèn, hãy đến nhà tôi mà nhận sự cảm tạ của cha mẹ tôi. Người dòng họ Thích chấp thuận lời mời xuống Long cung, và Long Vương vui mừng đích thân đến thi lễ. Người dòng họ Thích thấy hình dáng rồng không thích lắm cho nên muốn kiếu từ.
Long Vương giữ lại nói:
- Gặp gỡ chưa bao lâu, mà sao vội về vậy. Tôi báo cho thần dân biết điều nầy.
Người dòng họ Thích cảm tạ thưa:
- Thôi chẳng cần.
Long Vương lấy bảo kiếm để trên hộp bao bọc bên ngoài bằng lông trắng và nói với Người họ Thích rằng:
- Hãy đem bảo kiếm nầy về cống hiến cho Vua kia,, Bảo Kiếm sẽ tự hại Vua đó
Bởi vì nước kia không tốt lắm, người dòng họ Thích nhận lời chỉ bảo của Long Vương, cho nên mang bảo kiếm dâng cho Vua nước Ô Trượng Na. Người dòng họ Thích giấu kiếm trong tay áo đi thích khách. Sau đó những vệ binh cận thần hô lên có loạn có loạn. Người dòng họ Thích quơ kiếm nói rằng:
- Tôi có kiếm thần, do Long Vương trao,
Sau khi tru di rồi, sẽ tạm không có Vua, hoặc phải suy tôn người họ Cù lên vương vị. Đây là duyên cớ để cải đổi nền hành chánh. Rồi thì mọi người bị động trong vấn đề nầy, liền báo mệnh cho Long cung, đón Long Nữ về Vương cung. Túc nghiệp của Long Nữ chưa hết, vẫn còn dư báo làm Rồng, cho nên thỉnh thoảng Long Nữ vẫn hiện hình là một con rồng chín đầu. Người dòng họ Thích sợ hãi, nên âm thầm lấy dao cắt đi. Long Nữ hoảng sợ nói rằng:
-Điều nầy không lợi về sau. Khi mà mạng sống của tôi bị tổn thương, thì con cái của dòng họ sẽ bị khổ về bệnh đau đầu, vì thế con cháu họ Thích thường hay bị bệnh ấy, nhưng bệnh ấy không kéo dài.
Dòng họ Thích chưa có người kế vị cho nên lập Ôn Đán La Tê Na làm Vua. Sau khi nhà Vua tức vị, Thân mẫu qua đời, an táng xong. Đức Phật cho Rồng A Bà La La hoàn hình lại như cũ. Từ trên không hạ xuống cung đình. Lúc ấy nhà Vua đang đi săn. Như Lai vì mẹ mà lược thuyết pháp yếu. Gặp Thánh nghe Pháp được hiểu rõ ràng. Như Lai lại bảo rằng:
- Con của ngươi thuộc về dòng tộc Thích. Nay ở tại đâu?
Người mẹ đáp:
- Nó đi ra ngoài từ sáng sớm.
Như Lai cùng đại chúng muốn tìm hiểu nguyên nhân nầy.
Vương Mẫu đáp:
- Con tuy được Phước Đức sanh vào trong Thánh Tộc nầy. Như Lai vì lòng thương tưởng mà giáng lâm. Mẹ con trở lại nguyện nầy luôn chờ đợi và luôn giữ.
Thế Tôn đáp:
- Ngươi cũng thuộc dòng tộc của ta, hãy nghe mà tin nhận. Không phải chỉ người thân mới phát tâm vì ta mà làm vậy. Lại nói thêm rằng:
Như Lai từ đây mà đi đến thành Câu Thi Na và nhập Niết Bàn trong rừng Ta La Song Thọ. Hãy thâu lấy Xá Lợi để mà cúng dường. Như Lai cùng chư Đại Chúng nương hư không mà đi. Nhà Vua đang săn bắn xa xa thấy ánh sáng phát ra tại cung điện của mình, nghi là bị cháy nên bỏ đi săn mà về. Khi ấy gặp được thân mẫu mừng mà hỏi rằng. Khi con đi khỏi có chuyện gì linh cảm xảy ra, mà có thể làm cho từ mẫu trở lại hình dáng như ngày xưa?
Người mẹ đáp:
- Sau khi con đi rồi, Như Lai đến đây, mẹ nghe Phật thuyết pháp xong bèn trở lại như cũ. Như Lai từ đây sẽ đến thành Câu Thi La, ở dưới cây Ta La, thâu thần nhập Niết Bàn. Ngài nhắn con rằng hãy đến đó để phân chia Xá Lợi. Khi Vua nghe xong rồi cảm động đau đớn, mà tỉnh ngộ ra. Sau đó cho xa giá đến rừng Ta La Song Thọ thì Phật đã vào Niết Bàn. Lúc bấy giờ Vua các nước lân bang rất trân quý Xá Lợi cho nên không muốn chia. Ngay lúc ấy trời người cùng đại chúng tuyên lại ý Phật. Các vị nghe rồi mới lãnh thọ.
Phía đông bắc thành Tào Yết Phân là núi Thâu, qua khỏi sơn cốc ấy đi ngược lên là sông Tín Độ. Đường đi rất nguy hiểm vì núi non chập chùng, hoặc giây leo chằng chịt, hoặc đá dựng. Đường cầu treo lắc lẽo gian nan khó mà an toàn. Đi hơn ngàn dặm đến sông Đạt Lệ La, tức thuộc kinh đô cũ của nước Ô Trượng Na. Nơi đây có sản xuất nhiều vàng và nghệ. Có một Già Lam lớn tại Đạt Lệ, có khắc một bức tượng gỗ của Bồ Tát Từ Thị (Bồ Tát Di Lặc). Ánh sắc vàng chói linh hiển vô cùng cao hơn 100 thước. Tượng nầy do vị A La Hán tên là Mạc Điền Đệ Ca tạo nên. Vị A La Hán nầy đã dùng thần lực để biến thành người thợ tạo tượng. Từ cõi trời Đâu Suất xuống nên có thân tướng rất trang nghiêm. Cho nên hình dáng toàn thân bức tượng rất ư đẹp đẽ. Giáo Pháp lưu chuyển từ đây về hướng đông. Đến hướng đông thì gặp đỉnh núi Thâu, qua khỏi các hang động, ngược lên bên trên là sông Tín Độ. Đường đi nơi đây rất hiểm trở, qua năm trăm dặm hơn thì đến nước Bát Lộ La.
2) Nước Bát Lộ La, chu vi hơn bốn ngàn dặm nằm ở giữa núi Tuyết. Đông Tây dài, Nam Bắc hẹp. Có nhiều lúa mạch, đậu và vàng bạc. Quốc gia nầy là nước tương đối giàu có, tuy nhiên ở vùng lạnh cho nên tâm tánh con người hơi hung bạo bạc nhược. Nhơn nghĩa không có và những lễ lộc cũng thế. Hình dáng nhỏ nhắn, y phục đa phần dùng bằng lông. Chữ nghĩa đại khái giống như Ấn Độ. Ngôn ngữ khác với những nước khác. Có hơn 100 ngôi Già Lam và hơn 1000 Tăng tín đồ, học hành không chuyên cần, giới hạnh nhiều phóng túng. Tự đây trở lại thành Ô Dịch Ca Hán Trà, thì phía nam phải qua sông Tín Độ (Sông Sindhư). Sông nầy rộng 31 dặm, chảy về hướng nam. Nước trong vắt, lóng lánh màu bạc và chảy xiết. Rồng độc thú dữ nằm khuất trong hang động. Nếu mang vật quý cùng hoa quả cũng như Xá Lợi đi ngang sông thì thuyền thường hay bị gió thổi lật chìm. Qua sông đến nước Đản Hựu Thủy La, nằm ở phía Bắc xứ Ấn Độ.
3) Nước Đản Hựu Thủy La, chu vi hơn hai ngàn dặm. Kinh đô hơn mười dặm. Dân tộc nầy tuy hào hiệp nhưng dòng dõi nhà Vua đã tuyệt tự cho nên trực thuộc nước Ca Tất Thí, gần gũi và phụ thuộc nước Ca Thấp Di La. Đất đai màu mỡ, nhà cửa tốt đẹp. Có suối có ao nên hoa trái xinh tươi. Khí hậu ôn hoà, phong tục đơn giản, sùng kính Tam Bảo. Già Lam tuy nhiều nhưng đa phần bị hoang phế. Tăng Tín Đồ cũng ít nhưng theo Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa. Phía Tây Bắc kinh đô hơn 70 dặm, có ao Y La Bát Đản La Long Vương. (Erapattha) chu vi hơn 100 dặm, nước của hồ nầy trong vắt. Hoa sen có nhiều màu, đẹp đẽ dị thường. Con rồng ở đây, ngày xưa có chuyện kể rằng thời đức Phật Ca Diếp Ba. Có vị Tỳ kheo làm hại cây Y La Bát La cho nên bây giờ bị thổ thần yêu cầu kéo mây đến làm mưa. Khi đó vị Sa Môn cùng đến hồ nầy, khảy móng tay hỏi, theo nguyện mà có kết quả. Hồ rồng nầy, phía đông nam đi 30 dặm, vào hai bên núi lại có Bảo Tháp. Bảo Tháp do Vua Asoka tạo nên, cao hơn 200 thước, đức Thích Ca Như Lai huyền ký rằng khi đức Di Lặc ra đời ở trong tương lai, tự nhiên có bốn Đại Bảo Tạng xuất hiện nơi Thánh Địa nầy. Tại đây cũng có nghe người xưa nhắc lại rằng có lúc động đất, núi non chấn động mạnh nhưng các bảo vật trong vòng một trăm bước, không bị chao đảo. Có kẻ ngu vì tham đào lên, cho nên đất chấn động. Người ta đi bộ để phòng ngừa đất Già Lam bị tổn hại. Một bên của đất Già Lam bị hư nặng và lâu rồi không có bóng dáng Tăng Sĩ. Thành phía Bắc 12,3 dặm có một Bảo Tháp do Vua A Dục kiến tạo nên. Tháp nầy đến giờ ngọ, phát ra ánh sáng. Hoa trời và nhạc trời chúc tụng mọi người nghe thấy. Nghe rồi người xưa viết lại rằng: Gần đó có một người đàn bà đẹp, nhưng bị bịnh nan y. Bà đến Bảo Tháp nầy lễ bái sám hối. Thấy trong vườn tháp dơ nhớp, bà quét dọn sạch sẽ rồi rải hoa sen xanh lên trên mặt đất, bịnh của bà liền hết, dung mạo tươi thắm xinh đẹp, thân bà toả ra mùi hương hoa sen xanh. Ở nơi thắng địa nầy, ngày xưa đức Như Lai cũng tu khổ hạnh nơi nầy, làm Đại Quốc Vương hiệu là Chiến Đạt La Bát Lặt Bà (Nguyệt Quang) dốc tâm cầu Giác Ngộ, cắt đầu để bố thí. Sự bố thí nầy trải qua nghìn kiếp sống.
Bên cạnh Bảo Tháp, Bố Thí Đầu, lại có một Tăng Già Lam, vườn tược hoang phế, Tăng Tín Đồ giảm thiểu. Trong kinh tạng chép, nơi đây có Luận sư Câu Ma La La Đa (Đồng Thọ) trước thuật các bộ luận. Ngoài thành hướng Đông Nam của núi, lại có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước, nơi Thái Tử Câu Lan Noa, con của Vua A Dục vì kế mẫu mà móc mắt. Vua A Dục cho dựng tháp nầy. Do sự kỳ nguyện chân thành mà mắt sáng lại như xưa. Thái Tử do chánh hậu sanh ra, bà ta là người đẹp đẽ nhân từ. Khi Chánh Hậu mất đi, kế mẫu hoang dâm muốn tư tình với Thái Tử. Thái Tử khóc lóc muốn tự sát để tạ tội, cho nên kế mẫu thấy việc sai lầm nầy càng phẫn nộ thêm. Kẻ hầu nghe câu chuyện nầy bàn rằng phàm bậc kế thừa trị vì thiên hạ mà không phải là bà con hoàng tộc thì không được. Nay Thái Tử vì chữ Hiếu mà đã làm việc như thế. Cho nên Vua mới cảm kích nghe mưu gian nầy ra lệnh cho Thái Tử dạy rằng:
- Ta vì thừa mệnh trời mà kế tục sự nghiệp, phải dời đô, mất lời hứa với tiên vương cho nên phải giữ nước Đản Hữu Thủy La nầy. Ta nay ra lệnh ngươi qua trấn nhậm nước kia. Hiện tại quốc sự đang khó khăn, tình người đang phức tạp. Đi nhưng đừng có quên sự nối dõi. Chờ khi ta triệu với ấn tín của ta và qua khẩu lệnh của ta để biết mà thi hành.
Thái Tử vâng lệnh vua cha, sang nước đó trấn nhậm. Ngày tháng trôi qua, kế mẫu càng giận, trá tạo văn thơ đóng dấu phong kín, ra lệnh người hầu mang đi với ấn tín ấy. Kỵ sĩ mang thơ đi với sắc chỉ trong mình, đến gặp Thái Tử quỳ xuống dâng sắc. Thái Tử hỏi rằng:
- Tại sao buồn vậy?
- Đại vương có lịnh yêu cầu Thái Tử móc hai con mắt bỏ ở sơn cốc. Nếu vì nghĩa vợ chồng con cái sống chết cùng nhau, dù nhận lệnh như vậy nhưng chưa tuân theo thì phải tự trói để mà chờ tội.
Thái Tử đáp rằng.
- Lệnh của vua cha như thế có chết cũng chấp nhận. Ấn đã đóng trên thơ đã niêm phong không dối trá được.
Thái Tử ra lệnh cho Chiên Đà La móc mắt mình. Sau khi móc mắt, Thái Tử bị mù tự đi xin ăn. Số phận đưa đẩy trở lại cung thành của phụ vương, người vợ mới bảo rằng vương thành đây rồi. Than ôi! đói khát sao mà khổ quá. Mới ngày nào làm con vua bây giờ là kẻ ăn xin. Mong cho ai đó nghe biết điều nầy để thưa thỉnh lên trên liễu giám. Nên mới bày mưu tìm kế vào trong cung nội, đêm sau khóc lóc, nhờ tiếng gió đưa vào, hoà với tiếng sáo bi ai than thở. Nhà Vua ở trên lầu cao nghe được, giọng ai bi thảm cho nên nói rằng:
- Tiếng ca kia nghe như tiếng con của ta. Bây giờ tại sao ra nông nổi ấy. Liền hỏi nội thị, kẻ đang ca đó là ai vậy. Sai người đi mời kẻ mù kia vào cung. Nhà Vua thấy Thái Tử buồn rầu mới hỏi:
- Ai làm cho thân con ra nông nổi nầy? Con yêu quý của ta? Sao ra nông nổi nầy mà ta không biết. Bá tánh ơi ai cứu được con tôi ! Trời ơi sao mà ra nông nổi nầy. Đạo đức đã suy rồi. Thái Tử buồn khóc tạ lễ mà thưa rằng :
- Thật ra, con là kẻ bất hiếu với trời. Ngày tháng năm đó con đã nhận được sắc chỉ của cha. Không có lý do gì mà thối thác.
Vua biết tâm địa của kế mẫu đã làm việc ấy, cho nên đã gia hình phạt. Lúc ấy dưới cây Bồ Đề nơi vườn chùa, có một vị A La Hán tên là Cù Sa (Diệu Âm) đã chứng được đầy đủ tam minh và tứ vô ngại biện tài. Khi nghe Vua cáo bạch về đôi mắt của Thái Tử nên lấy lòng từ bi chữa mắt Thái Tử sáng lại. Lúc ấy vị A La Hán nhận lời thỉnh cầu của Vua, và cho mọi người biết rằng :
- Ngày mai ta sẽ Thuyết Diệu Pháp. Mỗi người đi nghe nên mang theo đồ đựng nước mắt.
Hôm sau, tất cả nam nữ xa gần tề tựu đến nghe. Lúc bấy giờ ngài A La Hán nói thập nhị nhơn duyên. Phàm ai nghe Pháp rồi mà chưa có lòng từ bi, thì hãy mang đồ đựng nước ấy đến đựng nước mắt. Sau khi thuyết Pháp xong ngài thu hết tất cả nước mắt đổ vào một cái bình bằng vàng, rồi thề rằng:
- Như lời nói Pháp của tôi hợp với chân lý. Nếu có gì sự lầm lẫn thì cũng đã giảng rồi. Như điều mà không sai, xin những nước mắt nầy đem tẩy rửa mắt mù, thì mắt liền được sáng và thấy lại như cũ.
Phát lời thệ xong, liền đem nước mắt để rửa mắt mù. Mắt mù liền sáng lại như cũ. Vua trách cứ và cật vấn các vị cận thần hoặc là dời chỗ, hoặc là tự tử. Các vị hào thế trong đời đều di cư vào núi Tuyết, ở trong động đá phía đông bắc của núi.
Từ đây đi về hướng đông nam qua các sơn động hơn 700 dặm, đến nước Tăng Ha Bổ La.
4) Nước Tăng Ha Bổ La, chu vi ba ngàn năm trăm sáu chục dặm. Phía tây giáp với sông Tín Độ. Đô thành chu vi mười bốn dặm rưỡi. Núi non cao vút bao bọc chung quanh. Nông vụ ít ỏi, nhưng đất đai phì nhiêu. Khí hậu lạnh, tánh người mạnh mẽ, phong tục nhiễu nhương lại nhiều dối trá. Nước không có người trị vì nên lệ thuộc nước Ca Thấp Di La. Cách thành phía Nam không xa, có một Bảo Tháp do Vua A Dục kiến tạo. Mỹ thuật đẹp đẽ, linh dị lạ thường. Bên cạnh đó có một Già Lam, không có người tu nào cả. Phía đông nam của thành cách 45 dặm, có một Bảo Tháp bằng đá cũng do Vua A Dục xây, cao hơn hai trăm thước, chung quanh có hồ soi bóng phải trái của mười tầng Bảo Tháp. Trên Bảo Tháp bằng đá đó có khắc nhiều sự tích khác nhau. Hồ nước kia trong vắt. Cá rồng và những loài thủy tộc khác bơi lội nghênh ngang. Hoa sen bốn màu nở lớn rất đẹp. Cây trăm trái có nhiều màu sắc khác nhau, tạo nên cánh rừng soi bóng xuống mặt hồ. Du ngoạn rất thích. Bên cạnh đó có một ngôi Già Lam lâu rồi chẳng có bóng dáng Tăng Sĩ. Cách Bảo Tháp không xa có Bạch Y Ngoại Đạo, đây là nơi mà đức Bổn Sư sau khi ngộ đạo đã thuyết pháp lần đầu tiên. Ngày nay có sách chép rằng bên cạnh đó có một đền thờ tu khổ hạnh, ngày đêm tinh cần, chẳng ngừng nghỉ. Đức Bổn Sư đã thuyết pháp nhiều kinh nghĩa khác nhau, tuỳ theo từng loại mà nói. Những quy tắc lễ nghi, người lớn thì gọi là Tỳ Kheo, người nhỏ gọi là Sa Di. Tất cả những oai nghi tế hạnh của người tăng lữ, chỉ lưu lại ít tóc và để mình trần. Hoặc có y phục thì dùng màu hoại sắc. Để phân biệt việc nầy, thì xem tôn tượng của Như Lai và những vị ngoại đạo. Y phục có sai biệt nhưng không khác mấy. Từ đây trở lại nước Đản Hữu Thủy La, về biên giới phía Bắc, phải qua sông Tín Độ đi qua hướng Đông Nam hơn 200 dặm, qua một cửa đá rất lớn. Chuyện xưa kể lại rằng có vương tử Ma Ha Tát Đoả đã xả thân để cho chim ăn. Từ phía Nam cách bốn mươi lăm dặm, có một Bảo Tháp bằng đá, ghi lại nơi mà Ma Ha Tát Đoả thương loài thú đói khát không còn lực nữa, đã đến nơi nầy lấy cây tre khô tự cắt thân mình lấy hưyết hiến cho thú. Nơi đất nầy có nhiều cây cỏ và những cỏ cây đó đượm màu huyết. Cho nên người đời mới bảo rằng nơi lưu huyết không còn nghi ngờ gì nữa. Vì lòng từ bi, mà đã xả thân.
Phía Bắc có một Bảo Tháp bằng đá cao hai trăm thước do Vua A Dục tạo thành. Điêu khắc thật đẹp, phát ra ánh sáng. Cả những tháp nhỏ và các bia đá ở nơi đây hơn trăm cái nằm trong khu vực phía Bắc của thành. Ai có bệnh tật đi nhiễu nhiều vòng thì hết.
Bảo Tháp bằng đá, từ phía đông đi đến, lại có một Già Lam, Tăng tín đồ hơn 100 người. Họ học theo Giáo Pháp Đại Thừa. Từ đây hướng về phía đông đi hơn 50 dặm, thì đến núi Cô Sơn, giữa núi lại có một Già Lam, Tăng tín đồ hơn 200 người, họ tu học theo Giáo Pháp Đại Thừa. Hoa quả tươi tốt. Nước ao cung cấp đầy đủ, bên cạnh đó có một Bảo Tháp khác, cao hơn 300 thước. Đây là nơi Như Lai ngày xưa đã độ cho con quỷ Dạ Xoa, làm cho nó không còn ăn thịt nữa. Từ đây qua hướng đông nam, đi hơn 500 dặm, đến nước Ngô Sắc Thi.
5) Nước Ngô Sắc Thi, chu vi hơn 2000 dặm, núi non trùng trùng điệp điệp, ruộng đất mênh mông. Đô thành chu vi 78 dặm. Nơi đây không có người trị vì, nên thuộc nước Ca Thấp Di La. Trồng trọt cày cấy, nhưng hoa quả rất ít. Khí hậu ôn hoà. Thỉnh thoảng có mưa sương và tuyết. Phong tục lễ nghi còn sơ khai, Tánh tình con người hung bạo. Đa phần dối trá không tin tưởng Phật Pháp. Đô thành phía tây nam 45 dặm có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước, do Vua Asoka dựng nên. Bên cạnh đó lại có một Già Lam, Tăng tín đồ rất ít. Tất cả họ đều học theo Giáo Lý Đại Thừa. Từ phía đông nam, lên núi cao qua cầu sắt, đi hơn 1000 dặm nữa đến nước Ca Thấp Di La.
6) Nước Ca Thấp Di La, chu vi hơn 7000 dặm, bốn bên đều là núi cao ngất trời. Chỉ có cửa trời thông qua rất hẹp. Từ xưa đến nay không nước nào chinh phạt được . Đô Thành được bao bọc bởi bốn con sông lớn. Nam Bắc mười hai dặm ba, Đông Tây bốn dặm rưỡi. Sống nghề canh nông, có nhiều hoa quả. Nơi đây xuất sanh những con Long Mã và nghệ cũng như dược thảo quý. Khí hậu lạnh có tuyết nhiều và ít gió. Y phục làm bằng lông thú màu trắng. Phong tục nhẹ nhàng như tiên, tánh người khiếp nhược. Nước được bao bọc bởi khưng cảnh, như rồng chầu. Dung mạo con người được nhưng tánh tình thì ngụy biện. Họ học nhiều nhưng cả tà lẫn chánh đều tin. Già Lam có hơn 100 ngôi, Tăng Tín Đồ hơn 5000 người. Có bốn Bảo Tháp, tất cả đều do Vua A Dục dựng xây. Các nơi ấy đều có thờ Xá Lợi của Như Lai.
Lịch sử chép rằng đất đai của nước nầy từ một cái hồ Rồng. Ngày xưa đức Thế Tôn từ nước Ô Trượng Na qua đây chinh phục con ác thần rồi trở về lại nước cũ, bay lên hư không nói với A Nan rằng: Sau khi ta nhập Niết Bàn, ở đây sẽ có vị A La Hán tên là Mạc Điền Đệ Ca (Madhyàntibha) ra đời kiến quốc an dân và hoằng dương Phật Pháp. Như Lai tịch diệt sau 50 năm, đệ tử Mạc Điền Đệ Ca chứng được A La Hán có sáu pháp thần thông, đầy đủ tám giải thoát. Nghe Phật huyền ký như thế cho nên tâm rất hoan hỷ tự tại, nên đến trên đỉnh núi cao ngồi giữa rừng sâu hiện đại thần thông biến hoá. Con Rồng thấy vậy cũng tin sâu và thoả ước nguyện.
Vị A La Hán nói: - Mong hồ nầy chứa được tất cả.
Long Vương hút nước đến cúng cho ngài. A La Hán vận thần thông cho Long Vương nhờ lực nầy mà lấy nước. Nước trong ao không còn nữa. Con rồng lật lên trên mặt đất, và vị A La Hán đã làm nên một cái hồ ở phía tây bắc chu vi hồ nầy rộng hơn 100 dặm. Đây là hồ nhỏ riêng thuộc hồ lớn kia. Long Vương thưa :
- Tất cả đất hồ nguyện xin cúng dường, mong ngài nhận cho.
Mạc Điền Đệ Ca đáp rằng:
- Chẳng còn bao lâu nữa ta nhập Niết Bàn, không biết nhận lời thỉnh cầu của ngươi có được chăng?
Long Vương lại thỉnh rằng :
- Năm trăm vị A La Hán thường nhận đồ cúng dường của con. Nhưng đến khi Pháp tận diệt rồi, trở lại nước nầy và trú nơi hồ nầy.
Mạc Điền Đệ Ca theo lời thỉnh mới biết chư vị A La Hán xuất sinh từ nơi đây, cho nên mới vận thần thông lập nên 500 cảnh chùa. Sang các nước khác thưê những người làm công sung vào công việc sai sử, để cung phụng Tăng Chúng. Sau khi ngài Mạc Điền Đệ Ca nhập diệt rồi, những người làm công tự lập lên người cai trị và các nước lân bang thấy họ thuộc dòng dõi hạ tiện nên chưa có giao hảo. Nghĩa là những người nầy như một dòng suối chảy càng ngày càng thịnh.
Nước Ma Kiệt Đà, Vua A Dục sau khi Như Lai diệt độ 100 năm lên ngôi cai trị uy danh lẫy lừng trong thiên hạ. Ngài thâm tín Tam Bảo, thương tưởng đến bốn loài. Lúc đó có 500 vị A La Hán Tăng và 500 vị phàm phu Tăng. Nhà Vua đều cung kính cúng dường không có sai biệt. Trong số phàm phu Tăng ấy, có vị Ma Ha Đề Bà (Đại Thiên - Mahadeva) trí tuệ siêu việt. Ngài tạo lập những bộ Luận lý giải Thánh Giáo. Mọi người nghe sinh ra dị nghị trong chúng. Vua A Dục chẳng cần biết Phàm Thánh đồng nghĩ rằng tốt. Nên đã thân cận triệu tập tăng đồ ra đến bờ sông Hằng, muốn các vị lặn sâu để biết chơn giả. Các vị A La Hán biết khó thoát cho nên vận dụng thần thông bay lên không để ra khỏi nước nầy và ẩn vào trong các hang động. Lúc đó Vua A Dục nghe thấy sanh hối hận nên mới đến tạ lỗi và thỉnh trở về lại nước, bị các vị A La Hán không theo. Vua A Dục vì các vị A La Hán kiến lập 500 ngôi Già Lam, tất cả đều đem cúng dường cho Tăng Chúng nước nầy là nước Kiền Đà La. Vua Ca Nị Sắc Ca sau khi Như Lai nhập Niết Bàn 400 năm, muốn an ủi vỗ về nên Vua đã ra lệnh xa gần. Đây là cơ hội để thực tập Phật Pháp, mỗi ngày Vua thỉnh một vị Tăng vào cung để thuyết Pháp, và nghe những dị nghị chấp trước không đồng của các bộ phái khác nhau. Nhà Vua đem sự nghi ngờ để đi đến chỗ cảm hoá. Lúc đó, Ngài Hiếp Tôn Giả bảo rằng:
- Như Lai ra đi năm tháng xa rồi. Đệ tử chấp vào bộ phái của Thầy mình nên có Luận khác biệt, chấp vào chỗ thấy nghe để làm cái riêng của mình. Cho nên khi Vua nghe được rất lấy làm cảm thương buồn rầu mới than với Tôn Giả rằng:
- E rằng dư phước của Phật sẽ hết, tuy ngài đã xa rồi, nhưng chúng ta còn diễm phúc thừa hưởng. Cảm ân đó không muốn quên để gọi là hẹp hòi nên phải thiệu long giáo pháp, do sự chấp trước về Bộ Phái nầy mà kiết tập tam tạng.
Hiếp Tôn Giả nói:
- Đại Vương là bậc Hiền có nhiều phước báo, đã muốn lưu giữ lại Phật Pháp nên mới có nguyện nầy, do đó nhà vua ra lệnh triệu tập những bậc Thánh Triết xa gần. Bốn phương xa gần vạn dặm đều biết. Anh tài hiền triết Thánh Nhân đã vân tập trong bảy ngày như thế đều có tứ sự cúng dường, chỉ muốn thật nghĩa của Phật Pháp sợ có những tạp nghĩa chen vào đây cho nên nhà Vua mới bạch lên chư Tăng rằng:
- Những bậc đã chứng Thánh Quả thì ở lại, những ai còn nội kết hãy lui ra. Như thế đó mà nói lên giữa đại chúng. Lại bảo những bậc Vô Học ở lại. Còn những bậc Hữu Học lui ra, Số nầy rất nhiều. Lại ra lệnh:
- Người nào đủ Tam Minh và Lục Thông thì ở lại. Ai chưa được thì lui ra. Số nầy cũng nhiều.
Lại ra lệnh tiếp:
- Vị nào thâm hiểu được Tam Tạng và đạt được Ngũ Minh thì ở lại. Ngoài ra thì xin lui. Số nầy cũng nhiều. Cuối cùng còn được 499 vị. Vì nước của Vua khó khăn, nóng và ẩm, cho nên ngài muốn đến thành Vương Xá nơi động đá của ngài Ca Diếp để mà kiết tập. Ngài Hiếp Tôn Giả liền thưa rằng:
- Không được
Vì tổ chức nơi đó sẽ bị Ngoại Đạo và các vị luận sư khác chi phối làm sao chúng ta có thể kiết tập, cho nên quyết định tổ chức ở nước nầy, vì ở đây có núi non bốn bên và Dược Xoa bảo vệ. Đất đai ở đây cũng cung ứng đầy đủ sản vật. Hiền Thánh đều qua lại. nơi đây cũng rất linh nghiệm và có nhiều kẻ dừng chân nên kiết tập ở đây rất thuận tiện. Lại nói thêm, nhà Vua nên vì các vị A La Hán mà kiến lập Già Lam để kiết tập Tam Tạng, đầu tiên là Tỳ Bà Sa Luận. Lúc ấy Tôn Giả Thế Hữu (Vasumittra) từ ngoài vào cúng y. Các vị A La Hán nói với ngài Thế Hữu rằng:
-Kiết tập chưa xong mà đã có nhiều tranh luận phải trái. Thôi thì ngài hãy đi xa đi đừng ở đây nữa.
Thế Hữu đáp rằng:
- Các Hiền Hữu! Các Pháp không có gì để nghi. Thay Phật để nói phải tập hợp những nghĩa lớn mới có thể tạo lập những bộ luận chơn chánh được. Tôi tuy chưa được gì nhưng không trái với ý nghĩa của tam tạng. Để đạt đến cái lý của Ngũ Minh, phải nghiên tầm mới đạt được nghĩa lý ấy.
Các vị A La Hán nói:
- Không thể nói như thế được. Ngài nên đi đi. Khi nào chứng được Vô Học rồi thì hãy lại đây. Ở đây không có miễn cuỡng.
Ngài Thế Hữu đáp rằng:
- Tôi nhìn địa vị Vô Học mà rơi nước mắt, chỉ cầu quả vị Phật thôi, chớ không cầu địa vị thấp. Chỉ cần ném cuộn tơ lên, rơi chưa chấm đất, chứng được Thánh Quả Vô Học rồi. Lúc bấy giờ chư vị A La Hán nói rằng:
- Ông là người tăng thượng mạn! Chư Phật đều tán thán quả vị Vô Học khó chứng. Ông mau chứng đi mới quyết trạch được các nghi ngờ.
Ngài Thế Hữu ném cuộn tơ trên không trung mà chư Thiên đã tiếp cuộn tơ ấy có lời thỉnh cầu rằng nên chứng Phật quả để hổ trợ cho ngài Di Lặc làm bậc đặc thù trong ba cõi và là chỗ nương nhờ của bốn loài. Làm sao chứng quả thấp được. Lúc bấy giờ các vị A La Hán thấy sự việc như vậy rồi mới cảm tạ và tôn ngài lên bực Thượng Toạ. Phàm có các việc nghi ngờ trong luận nghị hoặc cố chấp thì đủ người giải quyết trong năm trăm vị Hiền Thánh. Đầu tiên tạo một trăm ngàn bài tụng Ưu Ba Đề Xá Luận (Upadesa), cùng thích nghĩa kinh điển. Sau đó tạo một trăm bài tụng Tỳ Nại Da Tỳ Bà Sa Luận. Giải nghĩa tạng Luật. Sau đó tạo một trăm bài tụng A Tỳ Đạt Ma Tỳ Bà Sa Luận và giải nghĩa tạng Luận gồm có ba trăm chín chục ngàn bài tụng và chín trăm sáu mươi ngàn lời để giải nghĩa tam tạng xưa nay mà trong ý nghĩa thâm cùng để nghiên cứu kinh điển. Ý nghĩa quan trọng được trùng tuyên rõ ràng qua lời nói được tái xác định. Những lời trùng tuyên như thế được lưu bố rộng rãi về sau nầy cho nên Vua Ca Nị Sắc Ca bèn cho làm những lá đồng đỏ để khắc chữ của Luận Văn lên đó và khắc lên đá, rồi kiến tạo Bảo Tháp để tàng trử bên trong. Ra lệnh cho các thần Dạ Xoa bảo vệ chung quanh nước, không cho mang Luận Văn nầy ra ngoài cho kẻ khác đạo, mà chỉ muốn cầu học tập để tạo nên thiện nghiệp lực. Công việc nầy đã hoàn tất. Binh lính trở về kinh đô. Khi đi ra cửa thành phía tây của nước nầy, hướng mặt về phía đông mà quỳ xuống. Lại cúng tất cả nước nầy cho chư Tăng. Sau khi Vua Ca Nị Sắc Ca chết đi, thì nhiều chủng tộc tại đây xưng Vương. Trong chúng tăng có kẻ hủy hoại Phật Pháp.
Vua Tu Ma Đản La, thuộc nước Đỗ Hoá La, mà Vua nầy trước đây thuộc dòng họ Thích. Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn khoảng sáu trăm năm, đã có lãnh thổ và tiếp nối Vương Nghiệp. Có tâm lưu giữ Phật Pháp nên khi nghe qua Ngật Lợi đã hủy diệt Phật Pháp, liền chiêu tập ba ngàn dũng sĩ trá làm thương buôn mang theo nhiều Bảo vật để bán. Trong đó có chứa những vũ khí xâm nhập vào nước nầy, tạo những lễ vật quý giá và trong những vị thương buôn đó tuyển mộ được 500 người mưu kế mãnh liệt. Họ giấu cây và dao trong đồ vật quý giá để dâng hiến lên Hoàng Thượng. Vua xứ Tuyết kia đến tận nơi ngồi xuống. Nhà Vua Ngật Lợi đã không để ý nên bị chém đầu. Sau đó họ tuyên bố rằng:
- Chúng tôi là thuộc hạ của Vua nước Đỗ Hoá La, ở dưới chân núi Tuyết, rất giận loài tặc tâm mà tham chính nên nay mới giết để hạch tội. Để cho trăm họ được nhờ. Qua việc nầy các vị cận thần Tể Tướng đều đi nơi khác. Để an tâm người nước nầy liền cho triệu tập Tăng lữ, kiến thiết các Già Lam, xây dựng Bảo Tháp.
Lại nữa, ra khỏi phía cửa Tây của nước nầy, bèn quỳ xuống xây mặt về hướng đông cúng dường chúng Tăng. Tăng đồ thường che dấu sự tế tự của tôn giáo mất đi, cho nên người đời mới phẫn nộ, chối bỏ Phật Pháp. Thời gian qua đi, nay lại xưng Vương mà nước nầy xưa nay chẳng sùng tín, chỉ lo cho ngoại đạo và nơi thờ tự của họ mà thôi. Thành mới phía đông nam hơn mười dặm, đến thành phía bắc của núi lớn có một ngôi chùa. Tăng Tín Đồ hơn 300 người cùng với Bảo Tháp trong đó lại có Răng Phật, dài hơn một phân rưỡi, màu sắc vàng và trắng. Cứ đến giờ Ngọ thì phóng ra ánh sáng. Ngày xưa khi dòng họ Ngật Lợi đã hủy diệt Phật Pháp, thì Tăng Đồ phải giải tán để ở riêng biệt các nơi khác. Có một vị Sa Môn đi qua xứ Ấn Độ, đảnh lễ Thánh Tích, sau đó trở về lại nước. Vì nghe nước đã bình yên nhưng gặp những con voi phá phách cây cối mùa màng. Vị Sa Môn ấy thấy vậy liền leo lên cây. Bầy voi đến hồ nước hút nước phun lên cây rồi cùng làm cho cây trốc gốc bắt được Sa Môn kéo vô trong rừng gặp con voi bệnh đang nằm, dẫn vị Tăng nầy đến nơi nó chịu khổ, Sa Môn cắt lá trúc khô làm thuốc bó vào chân nó, thấy nơi chân voi có một hộp bằng vàng. Vị Sa Môn chữa cho con voi hết bịnh. Mở hộp ra, Sa Môn thấy trong đó có Răng của Phật. Tất cả những con voi quây quần bên vị Tăng không cho đi đâu hết. Trưa hôm sau, những con voi nầy mang trái cây đến đãi một bữa ăn thịnh soạn. Ăn xong, chở vị Tăng ấy ra khỏi rừng đến hơn trăm dặm thả xuống, và quỳ lạy mà lui về.
Sa Môn đến nước biên giới phía Tây qua một con sông, đò đến giữa dòng gần úp. Người đi cùng thuyền nghĩ rằng thuyền nầy có chở Sa Môn, chắc chắn có Xá Lợi của Như Lai, cho nên Rồng Cá mới sợ. Chủ thuyền kiểm nghiệm quả thật có răng của Phật. Lúc ấy vị Sa Môn đưa răng Phật lên mà nói với Rồng ở dưới sông rằng:
-Tôi nay gửi cho người, chẳng lâu nữa sẽ trở lại lấy, không cần qua sông, bỏ thuyền mà đi. Ngoái nhìn dòng sông mà than rằng:
- Tôi không thần thông cho nên chưa độ được loài rồng. Phải qua lại Ấn Độ một lần nữa để học phép chế ngự rồng. Sau khi học Tam Tạng xong trở về lại nước nầy đến bên bờ sông kia thiết lập đàn tràng cúng tế. Rồng trả lại hộp Răng Phật cho vị Sa Môn, vị Sa Môn ấy mang về cất Già Lam để thờ và tu phước.
Già Lam phía Nam cách mười bốn dặm rưỡi có một Già Lam nhỏ, ở giữa có thờ tượng đức Bồ Tát Quán Tự Tại. Có một người nhịn ăn cho đến chết, nguyện thấy được Bồ Tát, tức thời từ tượng nầy phát ra sắc thân vi diệu.
Chùa nhỏ phía đông nam, hơn 30 dặm có núi lớn, có một Già Lam cũ hình thức rất tráng lệ to lớn. Bây giờ chỉ còn lại một toà lâu đài. Tăng Tín Đồ hơn 30 người, họ học theo Giáo Pháp Đại Thừa. Ngày xưa vị Tăng là Già Bạt Đà La (Chúng Hiền) luận sư đã soạn bộ luận Thuận Chánh Lý Luận (Thuận Đạo Lý Luận) ở đây. Hai bên chùa chiền đều có Bảo Tháp. Đại A La Hán và Xá Lợi đều có mặt, cho nên chim muông dã thú trong núi rừng mang Hoa Quả ra cúng dường. Ngày tháng trôi qua tuy không có bóng dáng của Như Lai, nhưng trong núi nầy có rất nhiều điều linh dị; hoặc trên tường đá ngang dọc đều có lưu dấu tích của chim. Phàm những loại nầy đến đây đều quỳ xuống cùng với các vị A La Hán Sa Di nô đùa. Có những bức hoạ ghi lại những con chim nầy chở người qua lại và những sự tích khác khó có thể tường thuật hết. Cách mười dặm về phía đông của chùa có thờ Răng Phật, đến phía bắc của núi thì có một chùa nhỏ. Ở đây ngày xưa là chỗ của Sách Kiền Địa La Đại luận sư, nơi đây, cũng đã tạo một phần của Tỳ Bà Sa Luận.
Giữa ngôi Già Lam nhỏ ấy có một ngôi Bảo Tháp cao hơn 50 thước, nơi đó cũng là nơi để lại toàn thân Xá Lợi của một vị A La Hán. Đầu tiên, thân hình vị A La Hán đó rất vĩ đại. Ngài ăn uống như Voi. Bị ngài khác hỏi đồ ăn đi đâu mà không sợ thị phi vậy. Khi A La Hán sắp nhập diệt có bảo cho mọi người biết rằng ta bây giờ vì các ngươi mà nói nhân duyên nầy. Thân nầy là thọ báo thân voi của kiếp trước. Tại phía đông Ấn Độ có một vị Vua đang ở, có một vị Sa Môn cũng ở đó lúc ấy, từ xa đến Ấn Độ để tham học Thánh Giáo và Kinh Luật Luận. Nhà Vua mới mang tôi (con voi) đến cho vị Sa Môn kia, để chở kinh Phật, mà đến xứ nầy. Sau đó chẳng bao lâu thì mất. Do công đức chở kinh nầy mà tái sinh được làm người. Cuối cùng nhận được Y Phấn Tảo, tinh tấn bỏ tục xuất gia, chứng đắc thần thông, ra khỏi ba cõi. Cho nên ở đây, việc ăn uống trở thành tập khí. Mỗi lần ăn như thế phải ăn gấp ba lần để nuôi thân. Tuy nghe như vậy nhưng có người chưa tin. Ngài liền bay lên hư không, nhập vào Hỏa Quang định tức thì thân bốc khói, rồi nhập diệt. Và thân ấy hạ xuống nơi Bảo Tháp nầy.
Vương thành phía tây bắc, đi hơn hai trăm dặm, đến chùa Thương Lâm. Có Bố Sắc Noa luận sư (Viên Mãn) chính nơi đây đã giải thích Luận Tỳ Bà Sa. Phía tây thành đi hơn 145 dặm, đến sông lớn ở phía bắc, tiếp với núi phía Nam, thì đến chùa của Đại Chúng Bộ. Tăng nhân có hơn 100 người. Ngày xưa, Phật Địa La luận sư đã ở nơi nầy, mà làm tập Chơn Luận của Đại Chúng Bộ. Từ nơi nầy đi về phía Tây Nam núi non rất nguy hiểm. Đi hơn 700 dặm, đến nước Bán Nô Sai.
7) Nước Bán Nô Sai, chu vi hơn 2000 dặm, núi sông cách trở, người dân sống nghề canh nông, hoa quả rất nhiều, có nhiều mía, rượu nho, và trái ambala (xoài) cùng những rau quả khác. Tại nhà, có cây được trồng rất nhiều đều là cây trân quý. Khí hậu ôn hoà, Phong tục thuần hậu. Y phục là những loại vải thô và làm bằng lông. Nhân tình chất phát. Tánh tình ngay thẳng. Tin tưởng Tam Bảo. Có năm ngôi Già Lam, nhưng đa phần bị hoang phế. Vì không có Vua, nên trực thuộc nước Ca Thấp Di La. Phía bắc thành có Chùa nhưng ít có Tăng. Chùa phía Bắc lại có Bảo Tháp bằng đá rất linh nghiệm. Từ phía nầy đi sang phía Đông Nam hơn 400 dặm, đến nước Yết La Phạt Bổ La. 8) Nước Yết La Phạt Bổ La, chu vi hơn 4000 dặm. Đô thành chu vi hơn 10 dặm, rất hiểm trở vì có núi non bao bọc. Có sông hẹp, nên đất đai không phì nhiêu, phong thổ khí hậu giống như nước Bán Nô Sai, phong tục giữ gìn tốt đẹp. Con người dũng cãm, nhưng nước không có Vua nên phải lệ thuộc nước Ca Thấp Di La. Có hơn mười ngôi chùa, ít Tăng. Có một đền thờ, mà ngoại đạo thì rất đông. Người từ nước Lãm Ba đến xứ nầy, hình thù kỳ dị, tánh tình thô bạo. Ngôn ngữ phong tục lễ nghĩa đơn giản. Nước nầy không nằm trong biên giới của Ấn Độ. Và hay có tục lệ buôn bán chung. Từ đây, đi xuống hướng đông nam qua núi và sông hơn 700 dặm, đến nước Trách Ca.
LeGiang is offline  
Đã có 3 thành viên gửi lời cám ơn đến LeGiang vì bạn đã đăng bài:
imindykam (03-04-2022), JosephNulk (20-11-2014), maurahx16 (04-01-2023)
Old 06-07-2007, 10:52 PM   #9
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 595 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default Quyển thứ tư

Quyển thứ tư
(Gồm 15 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
1. Nước Trách Ca
2. Nước Chí Na Bộc Đệ
3. Nước Phiệt Lan Đạt La
4. Nước Quật Lộ Đa
5. Nước Thiết Đa Đồ Lô
6. Nước Ba Lý Dạ Đản La
7. Nước Vị Thố La
8. Nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La
9. Nước Tốt Lục Cần Na
10. Nước Châu Đệ Bổ La
11. Nước Bàng La Hấp Ma Phổ La
12. Nước Cù Tỳ Sương Na
13. Nước Ác Ê Chế Đản La
14. Nước Tỳ La Sắc Na
15. Nước Kiếp Tỷ Tha.

1) Nước Trách Ca, chu vi hơn vạn dặm, phía Đông giáp với sông Tỳ Phấn Xa. Phía Tây giáp với sông Tín Độ. Đô thành rộng hơn 20 dặm, chuyên nghề trồng lúa, có nhiều lúa mạch. nơi đây cũng có nhiều vàng, bạc, chì, đá, đồng, thiếc v.v... . Khí hậu rất nóng và có nhiều gió. Phong tục bạo tàn; lời nói thô bỉ. Y phục thường dùng màu trắng, kiêu xa, lộng lẫy. Không tin Phật Pháp, tin vào nhiều vị thần khác nhau. Có 10 ngôi Già Lam, trong khi đó đền thờ hơn 100 ngôi. Nơi nước nầy có nhiều chỗ bố thí cho người nghèo, họ cho thưốc men, hoặc cho đồ ăn. Cho nên những kẻ lữ hành qua đây cảm thấy ít mệt mõi vì có ăn và có mặc. Thành lớn phía tây nam, cách 14.5 dặm đến thành Xa Yết La Cố. Tuy thành quách đã hư hoại nhưng nền móng vẫn còn chắc chắn, chu vi hơn 20 dặm. Trong đó, xây thêm một thành nhỏ chu vi 6.7 dặm. Những người ở trong thành nầy rất giàu có và họ là những người ở nước phía bắc đến, mà cách đây 100 năm, nước nầy có vị Vua tên là Ma Ê La Cự La.
Thành nầy do một vị Vua người Ấn, có tài trí và tánh tình rất cương trực trị vì, nhưng những nước láng giềng chưa thần phục. Đời sống dư dả chuyên học tập Phật Pháp. Vua sắc lệnh chư Tăng phải suy tôn một vị phạm hạnh, nhưng chư tăng chưa chấp thuận, vì họ sống theo hạnh xả ly nên không cần tuân lệnh. Những bậc cao minh học rộng thuộc dòng họ Thích oai nghiêm khi nghe đàm luận về vấn đề đó liền ưng thuận. Nhà vua bảo :
Ta cũng kính Phật Pháp cho nên muốn tìm danh tăng, trong các ngươi ai có thể làm điều nầy để cùng đàm luận với ta chăng. Biết đâu trong tăng đoàn ấy có kẻ hiền minh cùng sánh vai với ta. Người đó sẽ được tôn kính. Lệnh nầy đã được ban ra trong năm xứ Ấn Độ. Tiếp theo Phật Pháp bị hoại diệt tăng lữ chẳng có người nào kế vị.
Nước Ma Yết Đa có Vua Bà La A Dật đã sùng kính Phật Pháp và yêu thương dân chúng. nhưng đại tộc của Vua lâm vào cảnh dâm loạn tự giữ phần mình không theo lệnh các viên chức. Lúc bấy giờ các tướng lãnh ở dưới trướng trị vì của Vua, biết rằng lúc nhỏ vua nghe lời các vị quan, còn bây giờ không cần biết đến chỉ lo chiến tranh. Làm như thế không nghĩ rằng có tội, mà ngay cả bản thân cũng như cây cỏ cũng bị ảnh hưởng lây. Nói xong đi ra khỏi cung, đi sâu vào trong rừng mà trong nước ấy có hơn vạn người đi theo tận nơi hải đảo. Đại tộc của nhà Vua cùng với binh lính ra biển thảo phạt. Nhà vua thấy sự nguy hiểm nầy, không sợ nguy hiểm liền ra nghinh chiến. Trống vàng một tiếng nổi lên. Binh lính bốn bề sáp nhau, bắt sống Đại Tộc, không cho người tiếp cứu. Đại Tộc của Vua tự xấu hổ mất luôn đường về. Ai nấy đều long đong. Nhà Vua ngồi trên toà Sư Tử bốn bên có quần thần hộ vệ, lại ra lệnh cho đại thần nói với Đại Tộc rằng:
- Nhà ngươi đã lộ diện muốn ta xa rời vương vị phải không?
Đại Tộc thưa:
- Lên Ngôi thì dễ nhưng gặp oán thù cũng không khó. Nếu mà không có sự liên hệ thì làm sao đối mặt với nhau để nói chuyện.
Nói đi nói lại ba lần như thế nhưng vẫn không nghe theo. Những lời ra lệnh như thế rất nhiều và tội nầy đã được biết. Tam Bảo là phước điền, là chỗ nương tựa của bốn loài. Chớ đem tâm lang sói mà hủy hoại nghiệp lớn. Phước chẳng phải do thần giúp mà nhà ngươi có thể lấy được sanh mạng của ta. Tội chẳng có thể xá, bỏ điều nghi mà tạo nên hình phạt được. Khi ấy mẹ của Vua Ấu Nhựt nghe được và ý thức việc thiện, nên khi nghe việc sát hại Đại Tộc liền bảo cho Vua Ấu Nhựt rằng:
- Ta thường nghe Đại Tộc đem lợi ích cho người có trí tuệ.
Do vậy Vua Ấu Nhựt nên ra lệnh Đại Tộc đến cung của Mẫu Hậu.
Mẫu Hậu nói:
- Than ôi! Đại Tộc! Ông không xấu hổ sao! Thế gian vô thường sự vinh nhục là điều thường thấy. Ta là mẹ của ông, nếu ông nhớ tình mẹ con, phải nên theo lời mà thường thăm nom.
Đại Tộc thưa rằng:
- Ngày xưa giết Vua cướp nước. Bây giờ làm kẻ tù nhân. Vương nghiệp phế bỏ. Tông miếu không còn. Trên xấu hổ tiên linh. Dưới thẹn với bá tánh. Mặt mũi nào để nhìn lên và cúi xuống nữa. Chẳng thể tự sát sao?
Vương Mẫu nói:
- Hưng phế tuỳ thời. Tồn vong hữu vận (việc thịnh suy theo thời gian, Sự mất còn theo vận mệnh). Lấy tâm để cứu người tức là được việc đừng quên vấn đề ấy, đừng lấy vật để cứu tâm. Lấy tâm mà cứu vật mà được mất đều quên, còn lấy vật mà cứu tâm thì buồn vui lại hiện. Hãy nên tin theo Nghiệp Báo và theo thời gian thay đổi đừng nên nương vào lời nói và sự tồn tại của thân nầy. Đại Tộc cảm tạ rồi thưa :
Há vì bất tài đã cùng Vua dựng nền hành chánh của nước, nhưng nay nước đã mất, đế nghiệp suy tàn. Tuy ở trong cuộc đời tục luỵ mà tham đắm cuộc sống ngắn ngủi. Nay thì biết rồi việc đã tạo xin cảm tạ thâm ân. Bây giờ sẽ nương vào đó để mà hành xử.
Mẫu hậu nói :
- Con ta vì tự ái nên sống chết đến cùng, rồi bảo với Ấu Nhựt rằng: Điển tích trước đã đủ sự huấn dụ cho quá khứ mà nên sống một nếp sống tốt đẹp. Nay Đại Tộc của Vua chỉ làm toàn việc ác và chỉ có phước đức mới không cùng tận. Nếu giết hại những người nầy, sau 12 năm sẽ nhận báo ứng, phải có lòng trung với đất nước mới là Vua của một nước. Phải biết đất nước phương bắc kia mà nghe lệnh ta đừng vì sự oán thù mà làm cho mất Vua mất nước.Ta là người đàn bà đang chờ cái lễ nghĩa ấy. Tất cả các binh lính cùng những người hộ vệ hãy nên rút ra khỏi biển và Vua em của Đại Tộc hãy trở lại nước của mình. Đại Tộc mất ngôi chỉ còn lại rừng núi nên đi đánh nước phía bắc là Ca Thấp Di La. Vua nước Ca Thấp Di La là người trọng lễ nghĩa, thương người mất nước phong cho thái ấp. Thời gian trôi qua, lại đốc suất dân trong thái ấp khởi lên giết Vua Ca Thấp Di La mà tự xưng Vương. Thừa việc chiến thắng nầy, mà ra oai với nước phía Tây là Kiền Đa La. Đem binh lính chinh phạt sát hại Vua nước nầy. Đại thần, dân chúng đều chết oan uổng. Đốt phá chùa tháp cho đến 1600 cơ sở. Binh lính giết dân chúng ở ngoài thành nhiều vô kể. Tất cả đều bị tàn sát chẳng kể loài nào. Lúc bấy giờ có người tiến đến và can gián nhà Vua rằng :
Sự uy hiếp của Đại Vương rất mạnh mẽ. Binh lính chẳng ai giao tiếp nổi. Giết hết những kẻ ác và người dân thế nào cũng nguyện lấy thân nầy chết thay cho họ.
Vua nói:
- Nhà ngươi tin Phật Pháp, làm việc phước đức, mong được thành Phật, thường nói về sự sống. Ngươi muốn dạy đời, nói việc ác của ta cho đời sau sao. Nay ta bảo cho ngươi biết không được từ chối. Hãy đem ba ức người kia (?) nhận chìm xuống sông Tín Độ. Ba ức người đó bị chìm xuống rồi, phân thân trở thành ba ức binh sĩ và trở về lại nước của mình bị mất. Sau đó tìm lại nơi mình bị chết để làm mưa làm gió. Trời đất kinh hoàng nổi cơn sóng gió. Lúc đó, quả nhân mới thương mà than rằng giết oan mọi người không tiếc, làm cho Phật Pháp bị diệt vong nên phải đoạ vào địa ngục Vô gián lưu chuyển không cùng.
Cổ Thành của nước Xá Yết La, bên giữa có một ngôi Già Lam, Tăng tín đồ hơn 100 người. Họ học theo giáo pháp Tiểu Thừa. Bồ Tát Thế Thân ngày xưa đã ở đây soạn Thắng Nghĩa Đế Luận. Tại đây có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước. Trong quá khứ có bốn vị Phật thuyết pháp ở đây và cũng có di tích của bốn vị Phật kinh hành nơi đây. Cách phía tây bắc của Già Lam khoảng năm dặm sáu, lại có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước, do Vua Asoka dựng nên để ghi lại nơi đây là nơi mà bốn đức Phật trong quá khứ đã thuyết pháp. Phía đông bắc của hoàng thành đi hơn 10 dặm đến một Bảo Tháp bằng đá cao hơn 200 mét cũng do Vua Asoka xây dựng. Đây là nơi ghi lại dấu tích của đức Như Lai qua phương bắc để hoằng hóa trên đường dừng lại nơi đây. Theo truyền ký Ấn Độ chép rằng trong Bảo Tháp ấy có lưu Xá Lợi, phát ra ánh sáng vào giờ Ngọ. Từ phía đông đi khoảng năm trăm dặm đến nước Chí Na Bộc Đệ.
2) Nước chí Na Bộc Đệ, chu vi hơn hai ngàn dặm. Kinh Đô chu vi mười bốn dặm năm. Họ trồng lúa hoa quả cùng những cây ăn trái khác. Nghề nghiệp của nước nầy rất phong phú, khí hậu ôn hòa, phong tục yếu kém. Học Đời Học Đạo đều có, nhưng tin Tà chánh lẫn lộn. Có hơn 10 ngôi Già Lam và 8 ngôi Đền Thờ.
Ngày xưa Vua Ca Nị Sắc Ca đã tuần du đến nơi đây vì nghe nước bên cạnh lớn mạnh và có những phong tục đặc thù. Làm sao mà phía tây lại có uy thế như vậy. Cho nên Vua Ca Nị Sắc Ca thường gặp những điều may. Ngày đêm bên nhà đều có binh lính canh gác. Nhà Vua đã ở lại nước nầy suốt mùa đông. Rồi đến nơi Na Bộc Đệ Chất Tử ở. Từ đây trở thành tên nước. Đất nước nầy cũng theo kịp Ấn Độ. Đất không có lê, có đào, do đó Chất Tử nói rằng:
Muốn ăn đào lê thì phải đến nước Na La Phiệt Phất Đản La mới có. Vì nước nầy người ta tin kính các nước phía đông nên được như thế. Đó là quê hương đất nước của Vua ta đời trước.
Phía đông nam đại thành, hơn 500 dặm, đến Chùa Đáp Vị Tô Phạt Na. Tăng Tín Đồ hơn 300 người, học theo phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Chúng Tăng ở đây đức hạnh thanh cao, tuy học Tiểu Thừa nhưng nghiên cứu rất rộng rãi. Trong hiền kiếp có 1000 vị Phật ở đây, tập họp Trời Người lại giảng sâu về Diệu Pháp. Đức Như Lai sau khi nhập Niết Bàn 300 năm, có ngài Ca Chiên Diên luận sư sáng tác Phát Trí Luận tại nơi nầy.
Ở trong chùa Phiệt Lâm, có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước do Vua A Dục dựng lên. Nơi đây cũng là nơi mà trong quá khứ có bốn vị Phật đã ngồi, cũng như đi kinh hành còn lưu lại dấu tích. Nơi tháp nhỏ, có nhiều động đá lớn thứ tự đối nhau không biết bao nhiêu mà kể. Ở nơi đây, trong kiếp sơ cũng có nhiều vị đến tu và chứng quả Thánh, còn nhiều hài cốt lưu lại. Cách Già Lam Nhiễu Sơn 20 dặm, có hơn 100 ngàn ngôi tháp thờ Xá Lợi Phật, liên tục với nhau. Từ đây qua phía đông bắc đi hơn 145 dặm, đến nước Phiệt Lan Đạt La.
3) Nước Phiệt Lan Đạt La, từ phía đông sang phía tây tám trăm dặm, từ nam ra bắc hơn 1000 dặm. Chu vi của Đô thành khoảng 12.3 dặm. Dân chúng sống bằng trồng trọt và cấy lúa. Cây trái hoa quả sum sê. Khí hậu ôn hoà. Phong tục cứng cõi. Dung mạo không được đẹp. Nhà cửa giàu có. Có hơn 50 ngôi Già Lam và 2000 vị Tăng, theo cả hai trường phái Đại Thừa và Tiểu Thừa. Có 3 Đền Thờ của Ngoại Đạo và hơn 500 người theo. Họ dùng tro bôi khắp người. Tiên Vương của nước nầy sùng kính ngoại đạo, sau gặp một vị A La Hán và được nghe Pháp, sanh tín tâm. Cho nên trong nước Ấn Độ cũng thuần tín theo vua mà phụng sự Tam Bảo, gần năm nước của Ấn Độ. Nhìn chung rất hỗn tạp, tốt xấu khó phân. Vua sắc lệnh chúng Tăng phải trang nghiêm tinh tấn, đoạn trừ tà niệm, để cho mọi người khởi tâm cung kính ngưỡng mộ. Vị nào phạm giới bị phạt rất nặng. Ngài trùng tu tất cả Thánh tích. Hoặc Bảo Tháp, hoặc Chùa Viện khắp trong nước Ấn Độ đều như vậy. Từ đây đến phía đông bắc qua động Du Tuấn Lãnh, đường bộ rất nguy hiểm, hơn 700 dặm đến nước Quật Lộ Đa.
4) Nước Quật Lộ Đa, chu vi hơn 3000 dặm, có núi non bao bọc chung quanh. Đô thành rộng hơn 14 dặm rưỡi. Đất đai dùng để cày cấy trồng trọt. Hoa quả tốt tươi. Vì ở gần núi Hy Mã Lạp Sơn cho nên có nhiều dược thảo quý. Nơi đây sản xuất nhiều vàng, bạc, đồng đỏ, lân tinh, đá hoa cương. Khí hậu lạnh lẽo, thường có mưa tuyết. Dáng người thô kệch. Tánh tình cương nghị mạnh mẽ. Có hơn 20 ngôi Già Lam, và hơn 1000 Tăng Tín Đồ, đa phần theo Đại Thừa. Một số ít tu học theo các bộ phái khác. Có hơn 15 ngôi Đền Thờ ngoại đạo, lẫn lộn với nhau. Hầu hết những tường Đền Thờ nầy nằm sát núi, có nhiều phòng đá.
Những vị A La Hán thường trú nơi đây. Các vị tiên nhân cũng dừng chân đến. Có một ngôi Bảo Tháp tại Trung Tâm do Vua A Dục xây dựng. Ngày xưa, Như Lai cũng đã từng đến nước nầy thuyết pháp độ sanh. Vẫn còn để lại di tích. Từ đây đi về hướng bắc bằng đường bộ hơn 1890 dặm, vượt qua đèo núi hiểm trở đến được nước Lạt Hộ La. Đi về phía bắc hơn 2000 dặm nữa, dọc đường gió lạnh tuyết bay không thể tránh được đến nước Vị La Sa.
Từ nước Quật Lộ đã đi về phía nam hơn 700 dặm, vượt qua núi lớn cùng sông to, đến nước Thiết Đa Đồ Lô.
5) Nước Thiết Đa Đồ Lô, có chu vi hơn 2000 dặm. Phía tây giáp với sông lớn. Chu vi của Đô Thành 17.8 dặm. Dân chúng sống bằng nghề trồng lúa. Hoa quả tốt tươi. Có nhiều vàng bạc, ngọc trai. Dân chúng ăn mặc phức tạp. Khí hậu nóng, phong tục thuần hoà. Tánh tình của người trên làm việc thiện, người dưới giúp đỡ mọi người. Thuần tín Phật Pháp, tín nguỡng cung kính. Có mười ngôi Già Lam ở chung quanh kinh thành, nhưng vườn tược hoang phế chẳng có bóng dáng một vị Tăng nào cả. Cách thành phía đông nam ba dặm tư, có một ngôi Bảo Tháp cao hơn 200 thước, do Vua A Dục kiến tạo nên. Bên cạnh đó còn có di tích bốn vị Phật quá khứ ngồi và đi kinh hành. Lại từ đây đi sang phía tây nam hơn 800 dặm, đến nước Ba Lý Dạ Đản La.
6) Nước Ba Lý Dạ Đản La, chu vi hơn 3000 dặm. Vương thành 14.5 dặm. Dân chúng sống bằng nghề canh nông, giàu có lúa mạch. Có những loại lúa chỉ trong 60 ngày là thu hoạch được. Nhiều bò và dê, ít hoa quả. Khí hậu nóng nực, phong tục đặc biệt. Họ chẳng thích học nghề, lại cung kính ngoại đạo, thuộc dòng Phệ Xá. Tánh tình hung bạo. Có 8 ngôi Già Lam, hư nát quá nhiều. Tăng đồ cũng ít, lại học theo phái Tiểu Thừa. Có 10 ngôi đền thờ, và hơn ngàn người ngoại đạo. Từ đây đi về hướng đông hơn 500 dặm, đến nước Vị Thố La.
7) Nước Vị Thố La, chu vi hơn 5000 dặm. Chu vi của Đô Thành hơn 20 dặm. Đất đai dùng để trồng trọt là chính. Nhiều nhà trồng xoài thành rừng. Tuy cùng là xoài nhưng có hai loại. Loại nhỏ màu xanh, chín biến thành màu vàng. Loại lớn trước sau vẫn là màu xanh. Nơi đây sản xuất lông thú và vàng bạc. Khí hậu nóng, gió nhiều. Phong tục lành mạnh. Dân chúng siêng tu phước, sùng kính bậc phạm hạnh và ham học. Có hơn 20 ngôi Già Lam và hơn 2000 tăng sĩ, tu theo cả hai trường phái Tiểu thừa và Đại thừa. Có 5 ngôi Đền thờ của Ngoại Đạo sống rất tạp nhạp. Có ba Bảo Tháp đều do Vua Asoka kiến lập. Nơi đây còn rất nhiều di tích của bốn vị Phật trong quá khứ. Xá lợi của chư vị Thánh đệ tử của Phật còn lưu giữ tại tháp nầy. Có tháp thờ quý Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Mãn Từ Tử (Punna-Phú Lâu Na), Đa La Ni Tử, Ưu Ba Li, A Nan Đà, La Hầu La, Mạn Thù Thất Lợi, (Văn Thù Sư Lợi) và Tháp thờ chư vị Bồ Tát v.v... . Mỗi năm chư tăng có ba tháng an cư, và hằng tháng có sáu ngày trai. Họ sách tấn nhau tu học rất tốt. Tín Đồ mang đồ cúng đầy đủ, hầu hết từ những nhà buôn. Tuỳ theo chùa chiền trang nghiêm mà tạo nên những tôn tượng đẹp. Ai tu theo A Tỳ Đạt Ma thì cúng dường ngài Xá Lợi Phất, ai tu theo thiền định thì cúng dường ngài Mục Kiền Liên. Ai trì tụng kinh điển thì cúng dường ngài Mãn Từ Tử. Ai tu theo Luật thì thờ ngài Ưu Ba Ly. Còn những vị Tỳ Kheo Ni cúng dường ngài A Nan. Những ai chưa thọ cụ túc thì thờ ngài La Hầu La. Những ai học Đại Thừa thì thờ cúng chư vị Bồ Tát hằng ngày. Các Bảo Tháp cũng được cúng dường tràng phan, bảo cái, linh, lọng, hương hoa, đều rải như mưa. Ngày đêm chấn động không cùng. Quốc Vương đại thần lấy việc tu thiện làm chính. Từ thành phía đông đi hơn 6 dặm rưỡi đến một chùa trong núi, lấy vách đá làm phòng, lấy hang làm cửa. Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta-Cận Hộ) đã xây dựng chùa nầy, trong đó có Bảo Tháp thờ móng tay của đức Như Lai.
Có một ngôi Già Lam ở phía bắc nằm trong núi có nhiều phòng bằng đá cao hơn 20 thước, chiều dài hơn 30 thước. Cứ bốn tấc có một tấm thẻ làm dấu nơi ngài Ưu Ba Cúc Đa đã thuyết pháp và hoá độ một đôi vợ chồng. Họ đã chứng quả A La Hán. Cứ cách một thẻ, thì có những phòng khác biệt có cắm cờ mà không ghi gì cả.
Từ phòng bằng đá ở phía đông nam cách hơn 24 dặm rưỡi, có một hồ lớn. Bên cạnh hồ có một Bảo Tháp, ngày xưa tại đây đức Như Lai đi kinh hành. Lúc bấy giờ có một con khỉ mang mật ong đến cúng Phật. Phật nhận mật ong, đem hoà vào nước cho chung Đại Chúng. Con khỉ ấy rất vui mừng nhảy lên chết tức khắc. Nhờ phước nầy mà tái sanh làm người.
Phía bắc của ao nầy không xa, có một rừng rậm. Bốn vị Phật ở quá khứ cũng lưu lại dấu tích trong khi đi kinh hành ở đây. Nơi đây cũng là nơi nhập định của Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên cùng với 1250 vị Đại A Lán. Có một Bảo Tháp ghi lại tất cả những di tích ấy. Đức Như Lai khi còn tại thế đã đến đây để thuyết Pháp và lưu lại trong rừng cây nầy. Từ đây đi về hướng đông bắc hơn 500 dặm, đến nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La.
8) Nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La, chu vi hơn 7000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm. Đất đai nơi đây dùng để cấy lúa. Khí hậu ôn hoà, phong tục còn nguyên sơ. Nhà cửa phòng ốc cao sang, trang trí thật là xa hoa. Con người thích sống an nhàn dùng ảo thuật để biến hoá. Làm việc ít nhưng thu lợi nhiều, bởi vì hàng hoá đa phần từ các quốc gia khác mang tới. Có ba ngôi Già Lam và hơn 700 Tăng Tín Đồ, hầu hết theo Tiểu Thừa Phật Giáo. Có hơn 100 ngôi đền thờ Ngoại Đạo. Dân chúng đa phần theo ngoại đạo. Chu vi Thành lớn hơn 200 dặm. Đây là đất lành. Nghe những bậc cổ đức cho biết rằng ngày xưa ở Ấn Độ có năm nước chia cho hai vua cai trị. Hai bên chiến tranh nhưng không phân thắng bại. Cả hai bên đều có âm mưu muốn chiếm đoạt bằng vũ lực. Muốn chinh phục thiên hạ mà quên đi phong tục cho nên người dân oán hờn không tuân theo mệnh lệnh của Vua. Còn Vua vì dân chúng mà khó toan tính như ban đầu. Thần có thể ở nơi động vật và quyền bính có thể ở nơi lập công.
Lúc bấy giờ, có một Phạm Chí trí dũng tài cao, mật sai cho bó lúa rồi bảo đem vào sân sau, làm những thư pháp để tàng chứa trong động núi. Năm tháng trôi qua cây đã cong héo. Nhà vua một hôm vào buổi sáng khi ngồi bảo cho các quần thần biết rằng:
- Ta bây giờ không còn đức độ để ở địa vị nầy nên trời đã báo mộng và sắc chiếu thư đang giấu trong núi. Nay hạ lệnh vào trong núi tìm kiếm thư ấy. Các quan phải báo cho dân chúng biết. Ngoài ra cũng nên cho mọi người xa gần biết được đại ý rằng:
- Phàm biển sanh tử không có bờ bến, còn sự trôi nổi thì lại không cùng. Bất luận loài nào, người nào cũng không phải tự nhiên mà sanh. Nay ta muốn gửi mệnh lệnh nầy để được lìa xa các khổ ải.
- Vương thành nầy phải xây dựng cách đây 200 dặm, chính tiên đế cũng đã tiên đoán nơi đó là đất tạo ra phước đức. Dù có ghi lại nhưng thời gian đã hủy diệt. Sanh linh không biết nên chìm đắm trong biển khổ. Thế mà chẳng cầu cứu thì làm sao được ư.
- Các ngươi biết rằng những loài hàm thức gặp nạn binh đao mà chết sanh lại làm người. Giết nhiều không tội mà còn nhận được phước báo của trời. Thuận cho con cháu giữ gìn kinh điển quí báu ngày xưa để đem đến đất này tạo nên phước đức vô cùng. Công ít mà phước thì nhiều, có gì gọi là thất lợi.
- Một khi mất thân nầy, đọa vào ba đường khổ, làm sao các loài hàm linh có thể tu hành được, mà những người nầy đều là những chiến binh, đã thấy việc chết rồi quay trở về.
Vua ra lệnh chiêu mộ các bậc dũng sĩ cả hai nước đều giao chiến. Hai bên chiến đấu người chết như rạ. Cho đến bây giờ, mới thật sợ hãi mà xương cốt đã chất cao, nên nước có tục lệ tương truyền rằng đó là phước địa.
Thành phía Tây bắc cách bốn dặm rưỡi, có một Bảo Tháp cao hơn 400 thước do Vua A Dục xây. Tháp có màu vàng màu đỏ, chiếu ra ánh sáng thanh tịnh, trong đó có Xá Lợi của Như Lai khoảng một đấu, thỉnh thoảng phát ra ánh sáng rực rỡ.
Thành phía Nam đi hơn 100 dặm, đến Chùa Cụ Hôn Trà đứng trơ trọi. Chùa Viện nằm san sát nhau nhưng trơ trọi. Tăng chúng rất thanh tịnh, uy nghiêm và nhàn nhã. Từ phía đông bắc nầy đi hơn 400 dặm đến nước Tốt Lục Cần Na.
9) Nước Tốt Lục Cần Na, chu vi sáu ngàn dặm. Phía đông giáp sông Hằng. Phía bắc giáp núi cao và giữa có sông Các Mâu Na. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm, Phía đông sông Các Mâu Na, phần nhiều còn hoang vu ít ai đặt chân đến. Đất đai phong thổ tốt tươi như nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La. Tánh tình dân chúng thuần hậu chất phác. Họ tin theo Ngoại Đạo, tu Phước và Huệ. Có năm ngôi Già Lam và hơn 1000 Tăng Sĩ. Đa phần tu theo Tiểu Thừa thuộc Tiểu Tập Du Bộ. Thường nghiên cứu huyền nghĩa của Luận và tìm cầu so sánh với những luận khác. Có hơn 100 ngôi đền nhưng ngoại đạo rất đông. Thành lớn ở phía đông của sông Cát Mâu Na, có một ngôi Bảo Tháp do vua A Dục dựng. Ngày xưa Như Lai đã từng trú ở đây để thuyết pháp độ sanh. Có một ngôi Bảo Tháp nữa, trong đó có thờ tóc và móng tay của Như Lai. Cũng có những tháp nhỏ, thờ tóc và móng tay của ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên và ngài La Hầu La, chung quanh có hơn mười ngôi như thế.
Sau khi đức Như Lai diệt độ rồi, nước nầy vì ngoại đạo lầm lẫn nên bị quở phạt. Họ tin theo tà pháp tổn hại chánh kiến. Hiện tại có năm ngôi Già Lam, nơi mà các luận sư nước ngoài tranh luận cùng ngoại đạo Bà La Môn. Từ phía đông của sông Cát Mâu Na đi hơn 800 dặm nữa, đến sông Hằng. Bình nguyên của sông rộng ba dặm tư. Phía đông nam chảy vào biển rộng hơn 10 dặm. Nước màu lóng lánh chảy xiết, nhiều quái vật nhưng không hại. Nơi đây đất cát rất đẹp. Tục lệ ở đây ghi lại rằng đó là nước của Phước Đức. Cho nên ai có tội xuống tắm thì sẽ hết tội. Khi dầm mình xuống đó, tái sanh về cõi Phạm Thiên. Hài cốt người chết nhúng xuống nước sông nầy, hương hồn không bị đoạ vào Ác Thú. Sóng nước đưa thần thức đầu thai. Lúc ấy ở nước Chấp Sư Tử (Tích Lan hiện nay), có Bồ Tát Đề Bà thâm chứng về thật tướng của các pháp tánh, buồn thương cho những kẻ ngu muội đã đến đây bị ngoại đạo dụ dỗ, bảo đàn bà và thiếu nữ tập họp lại thành đoàn từ nơi bờ sông làm cho nổi sóng nước. Bồ Tát Đề Bà dùng ánh sáng kéo đầu họ lại cho nên ngoại đạo bảo rằng:
- Ta khác họ cái gì?
Bồ Tát đáp:
- Cha mẹ tôi và thân tộc đang ở tại nước Chấp Sư Tử sợ khổ não đói khát cho nên mới đi xa.
Ngoại Đạo nói:
- Ta có gì sai đâu? chưa hề quên đi việc làm đấy. Đất nước của Ta có sông rộng có núi cao tạo nên nước nầy chung quy để cứu mọi người khỏi đói khổ. Đến nơi nầy để tìm cầu như trước. Chẳng nghe như thế sao?
Bồ Tát Đề Bà đáp:
- Làm sao nước sông và núi kia cứu được tội lỗi chất chồng?
Thời bấy giờ ngoại đạo nghe xong cảm tạ cúi đầu thuận quy Chánh Pháp. Sau khi hối cải, nguyện phụng trì Chánh Pháp. Sau khi qua sông ở bờ phía đông đến nước Châu Đệ Bổ La.
10) Nước Châu Đệ Bổ La, chu vi 6000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm. Dân chúng chuyên về trồng lúa mạch, có nhiều hoa quả. Khí hậu ôn hoà. Gió mưa đều đặn. Họ tôn sùng học thuật, tin sâu tà chú. Cả chánh lẫn tà họ tin như nhau. Nhà Vua thuộc dòng Tuất Đạt La chẳng hề tin kính Phật Pháp mà tin Phạm Thiên. Có mười ngôi Già Lam, và hơn 800 Tăng Sĩ. Đa phần tu theo Đại Thừa Giáo của Bộ Phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Có hơn 50 ngôi đền thờ, ngoại đạo sống tạp nhạp với nhau.
Thành lớn phía nam đi hơn bốn dặm rưỡi, đến một Già Lam nhỏ. Có hơn 50 Tăng Sĩ. Ngày xưa luận sư Cù Noa Bác Tà Bà (Đức Quang) cũng ở tại nầy soạn ra Bàng Chơn Đẳng Luận. Trong hơn một trăm bộ phái, luận sư thuộc phái Tiểu Thừa nhưng là người thông minh, tài giỏi, mẫn tiệp, học nhiều, hiểu rộng và còn uyên bác cả Giáo Lý Đại Thừa nữa. Vì đọc Tỳ Bà Sa, nên Ngài tu theo Tiểu Thừa và sáng tác hơn mười bộ luận, trở thành người chấp trước Tiểu thừa, phản đối giáo nghĩa Đại Thừa. Ngài còn soạn hơn mười bộ Tục Thơ. Nhưng luận chứng của Ngài không bài xích những bậc tiền bối mà tư tưởng Giáo nghĩa Phật lý rất uyên áo, đến hơn mười thể loại, không thể diễn nói hết. Ngài còn nghiên tầm những tinh tuý và những nghi vấn đã từ lâu chưa giải quyết được.
Lúc ấy vì có Đề Bà Tê Na (Thiên Quân A La Hán) thường lên xuống cõi trời Đâu Suất, gặp đức Di Lặc để thỉnh hỏi điều nghi, cho nên Ngài cũng dùng thần lực lên đó, cầu gặp đức Di Lặc. Thấy đức Di Lặc từ xa nhưng ngài không vái chào. Rồi lại nghĩ rằng đức Bồ Tát Di Lặc sẽ thành Phật, sao mình còn tự cao chưa đến kính lễ. Mình muốn thọ giáo mà lại không chịu kính phục. Ngài Đức Quang lại nghĩ rằng Tôn giả thường có những lời nói thành thật làm kim chỉ nam, nhưng mình là những đệ tử xuất gia đã thọ giới Cụ túc làm Tỳ Kheo. Còn ngài Bồ Tát Từ Thị hưởng phước lạc của chư thiên nhưng chưa xuất gia làm tăng lữ. Mình thi lễ e rằng không đúng oai nghi. Bồ Tát biết rõ tâm ngã mạn của ta, và cũng biết chẳng phải là pháp khí. Lên xuống ba lần như thế nhưng chẳng giải quyết được gì. Bèn thỉnh ngài Thiên Quân để lễ. Ngài Thiên Quân biết rằng kẻ kia ngã mạn, nên không đối đáp. Nhưng tâm của ngài Đức Quang chẳng hề thối lui. Giận khởi lên, ngài vào rừng sâu tu tập một thời gian chứng được định tuệ, mới biết rằng ngã mạn chưa trừ chẳng chứng được đạo quả.
Phía bắc của chùa Đức Quang cách ba dặm tư có một Đại Già Lam, có hơn 200 Tăng Sĩ. Họ đều học tập theo phái Tiểu Thừa, ở nơi mà Ngài Chúng Hiền (Sangha Bhadra) luận sư viên tịch. Luận sư là người Ca Thấp Di La, thông minh lanh lợi từ lúc còn thơ, cho nên đặc biệt nghiên cứu sâu Bộ Luận Tỳ Bà Sa của Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Khi ấy có Bồ Tát Thế Thân phát tâm xiển dương giáo điển cho thật minh bạch nên soạn A tỳ đạt ma Câu Xá Luận để phá Luận Tỳ Ba Sa với ý nghĩa thiện xảo, lý lẽ thanh cao. Bộ Luận nầy làm cho ngài Chúng Hiền xem qua lưu ý và phát tâm bỏ ra 12 năm nghiên cứu và soạn Câu Xá Bạt Luận, có 25 ngàn bài tụng và hơn 800 ngàn lời. Ngôn ngữ thâm sâu cao xa vời vợi. Rồi bảo với môn nhân rằng:
- Ta đem sức tàn mà soạn ra Chánh Luận nầy, để phản bác tư tưởng của ngài Thế Thân, không cho lão già đó một mình nêu danh trên diễn đàn.
Vì vậy ông cho 43 người học trò mang luận văn nầy đi tìm gặp ngài Thế Thân.
Lúc đó đang ở trong thành Xá Yết La thuộc nước Lân Ca nghe tin đồn ngài Chúng Hiền sẽ đến tra vấn, ngài Thế Thân chuẩn bị hành trang. Học trò hoài nghi thưa với Ngài:
- Đại sư là bậc đức cao, hiền triết nổi danh đương thời, học trò xa gần đều kính nể phục tài. Mà bây giờ mới nghe tên Ngài Chúng Hiền đã lo lắng như vậy? Chúng con mạnh lắm.
Ngài Thế Thân nói:
- Ta không biết tránh tên nầy ở đâu. Nhìn cả nước, không có ai lịch lãm như kẻ hậu học Chúng Hiền nầy. Nghe nói biện luận rất lưu loát còn ta đã già rồi không thể luận nữa. Nếu nói một lời sanh ra chấp trước. Nên đưa họ đến miền trung Ấn Độ đối chất với những vị tăng khác, mới biết đúng sai, được mất như thế nào.
Một ngày sau, luận sư Chúng Hiền đến chùa nầy bỗng nhiên thần khí thay đổi. Mang sách ra để trước mặt và vọng nói tạ lỗi ngài Thế Thân rằng sau khi Như Lai diệt độ, vì các đệ tử chấp trước bộ phái và truyền lại các môn học trong phạm vi chuyên môn cho nên có sự khác nhau. Tuy cùng gốc nhưng khác ngọn. Con là người ngu chưa rõ cho nên tiếp tục soạn ra A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận để phá Đại nghĩa của luận sư của Tỳ Bà Sa. Chẳng lượng sức mình nên đã nhiều năm nghiên cứu và soạn ra luận nầy để phù trợ cho việc học chánh đáng. Sự hiểu biết thì ít, còn tham vọng thì nhiều, trong khi cái chết gần kề. Trong khi đó, những gì Bồ Tát tuyên dương thật chí lý, chẳng chấp vào có được của di văn, là điều hân hạnh lắm có chết cũng chẳng hối hận.
Các môn nhân cũng xin từ biệt mà thưa rằng:
- Chúng con là kẻ hậu học mà khinh chê bậc tiền bối, thì số phận ra sao?
Nay các người vì ta mang luận nầy và thư nầy đến thay ta sám hối với Bồ Tát. Họ nhận lãnh xong rồi ra đi với thư ấy. Khi đến nơi ngài Thế Thân ở thưa rằng:
- Thầy của chúng con là Chúng Hiền đã xả thọ mạng và có dạy rằng mang thư nầy đến để tạ lỗi, chẳng bỏ sót tên tuổi mà cũng chẳng quên. Bồ Tát Thế Thân xem xong luận rồi trầm ngâm một hồi lâu mà nói với môn nhân rằng:
Luận sư Chúng Hiền là người hậu học nhưng rất thông minh, lý luận tuy chưa đủ nhưng chữ nghĩa thì có dư. Nay ta muốn bài bác Luận nầy của Chúng Hiền chỉ rõ cho minh bạch cho đến chết cũng chưa xong. Quả thật là lời rất khó, huống gì nhân duyên nghĩa lớn còn tồn đọng lại sao. Và huống gì luận nầy còn làm rõ tông phái của mình cho nên ta chỉ đổi thành Thuận Chánh Lý Luận là đủ.
Môn nhân mới thưa rằng:
- Thầy chúng con là Chúng Hiền mất chưa bao lâu mà đã được Ngài sửa đổi luận nầy, chúng con rất vui mừng nhận lãnh.
Bồ Tát Thế Thân vì muốn trừ nghi của chúng, nên nói bài kệ rằng :
Như Vua Sư Tử
Heo thấy liền tránh
Hai lực hơn thua
Người Trí nên biết
Sau khi thiêu xong, hài cốt của Ngài Chúng Hiền thờ trong Bảo Tháp cách chùa phía tây bắc hơn 200 dặm trong rừng Ám Một La đến bây giờ vẫn còn tồn tại.
Từ phía rừng Ám Một La lại có một Bảo Tháp, thờ nhục thân của luận sư Tỳ Mạt La Mạt Đa La (Vô cấu Hữu Vimalamitra). Luận sư là người của nước Ca Thấp Di La. Ngài xuất gia với Bộ phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ, hiểu rộng các kinh điển và nghiên cứu các luận khác. Ưa qua năm nước của Ấn Độ để học Tam Tạng giáo điển. Sau khi tu học thành tựu, Ngài trở về lại quê hương của mình. Trên đường về, ghé Bảo Tháp của Ngài Chúng Hiền than rằng:
Nguỡng bạch luận sư, Ngài là bậc thạc đức cao uyên, vì hoằng dương Luận nghĩa, đã tranh biện với bộ phái khác để giữ tôn chỉ của Bộ Phái mình. Sao ngài không sống lâu nữa. Con không sợ mất mác nhưng buồn vì chưa học được gì về những ý nghĩa sai khác để thay thế cho những sự nhớ mong về đức độ. Ngài Thế Thân tuy mất nhưng Tông của ngài vẫn còn truyền, con đã biết nên đã chế ra các Luận làm cho những người học trong cõi Thiệm Bộ Châu này dù theo Đại Thừa không còn nêu tên tuổi của Ngài Thế Thân nữa.
Phát tâm nguyện, đã dụng hết khả năng mà nói lên lời ấy, liền phát cuồng loạn, máu từ năm căn tuôn ra, liền biết mạng sống đã hết.
Cho nên trong thư có lời sám hối rằng:
Phàm là những ai theo Đại Thừa mà nói về Thuyết cứu cánh của Phật Pháp, khi tên gọi không còn nữa lý mới đến chỗ thanh cao. Vì ngu muội mà khinh chê bài xích sự tiến bộ của bậc tiền bối. Khi phước nghiệp đã hết thì thân nầy không còn nữa. Cho nên mọi người học trong hiện tại, phải biết rằng đừng nên sân hận mà phát chí cao sang, và chớ nên hoài nghi.
Lúc ấy đại địa chấn động, thân mệnh liền mất, rơi vào hầm lửa, những người đi chung thiêu xác và tạo tháp miếu để thờ. Lúc bấy giờ có vị A La Hán thấy Tháp Miếu mà than rằng:
Thật là khổ thay thương thay, vị luận sư nầy đã vì sự chấp kiến, có lời nói ác để hủy báng Đại Thừa mà bị đọa vào Vô gián địa ngục.
Phía tây bắc của nước nầy có sông Hằng. Bên cạnh phía đông có thành Ma Cốt La, chu vi hơn 20 dặm. Những người ở đó thường hay giao lưu với nhau chặt chẽ. Nơi đây cũng sản xuất những đá thủy tinh và đồ kim khí tốt. Rời khỏi thành chẳng bao xa, gặp sông Hằng, bên cạnh đó có một đền thờ rất linh hiển, mà ở trong có một cái hồ có bờ đá bao quanh, lấy nước từ sông Hằng vào và là cửa ngõ của năm nước Ấn Độ. Sông nầy tức là sông sanh Phước diệt tội. những người ở xa thường hay đến đây hơn trăm ngàn người để tắm rửa. Các vị vua có tâm từ thường hay tạo những ngôi nhà từ thiện để chứa thuốc men, bố thí chu cấp cho những người cô độc. Từ phía bắc, đi hơn ba trăm dặm, đến nước Bàng La Hấp Ma Phố Ma.
11) Nước Bàng La Hấp Ma Phổ La, chu vi hơn 4000 dặm, núi non bao bọc bốn bề. Đô thành hơn 20 dặm. Người ở đây cũng như nhà cửa rất giàu có. Đất đai dùng để cày cấy và trồng trọt. Nơi nầy sản xuất đá thủy tinh. Khí hậu ít lạnh, gió mưa điều hòa. Phong tục thuần hậu. Tuy nghề nghiệp nhẹ nhưng nhiều lợi tức. Tánh tình cộc cằn, cả tà lẫn chánh đều tin. Có năm ngôi Già Lam, nhưng ít Tăng Sĩ. Có hơn mười ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống chen chúc với nhau. Biên giới phía bắc giáp núi Hy Mã Lạp Sơn. Ở trong đó có nước Tô Phạt Sắc Nô Cô Đản La, nơi đây sản xuất vàng rất nổi tiếng. Đông Tây dài. Nam Bắc hẹp, tức là nước Đông Nữ, chỉ có những người đàn bà trị quốc cũng như làm Vua. Họ chẳng biết chánh sự là gì. Còn đàn ông chỉ lo làm ruộng. Đất đai trồng nhiều lúa mạch, có nhiều gia súc như bò, ngựa. Khí hậu lạnh lẽo. Nhân tình thô bạo. Phía đông giáp với nước Thố Phan, Phía bắc giáp với nước Vu Điền. Phía tây giáp với nước Tam Ba Ha. Từ Vị Đệ Phổ La đi xuống phía Đông Nam hơn 400 dặm gặp nước Cù Tỳ Sương Na.
12) Nước Cù Tỳ Sương Na, chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 14.5 dặm. Dân cư ở nơi đó thuần hậu. Chung quanh bao bọc bởi núi cao. Rừng, núi và hồ ao liên tục với nhau. Khí hậu và đất đai cũng giống như nước Vị Đệ Bổ La. Phong tục thuần chất, thích học hỏi, ưa làm phước. Đa phần tu theo Ngoại Đạo, cầu cho hiện tại được an vui. Có hai ngôi Già Lam và hơn 100 Tăng Sĩ, phần lớn tu theo phái Tiểu Thừa. Có hơn 30 ngôi đền thờ. Những ngoại đạo sống chen chúc với nhau.
Có một ngôi Già Lam ở ngoài thành lớn, trong đó có Bảo Tháp, do Vua A Dục xây dựng nên, cao hơn hai trăm thước. Như Lai ngày xưa tại đây, mỗi tháng giảng Pháp một lần. Bên cạnh đó có di tích của bốn vị Phật quá khứ tọa thiền và kinh hành. Nơi đây cũng có hai cái Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai, mỗi tháp cao một trượng. Từ đây đi qua phía đông nam hơn 400 dặm, đến nước Ác Ê Chế Đản La.
13) Nước Ác Ê Chế Đản La, chu vi hơn 3000 dặm. Đô thành 17.8 dặm. Nơi nầy hiểm trở. Họ trồng lúa mạch, có nhiều rừng và suối. Khí hậu ôn hòa. Phong tục thuần chất, ngoan đạo, ham học, nhiều tài biết rộng. Có mười ngôi Già Lam và hơn 1000 Tăng Sĩ tu theo phái Chánh Lượng Bộ, thuộc Tiểu Thừa. Có 9 ngôi đền thờ và hơn 300 ngoại đạo. Họ tu theo Tự Tại Thiên và bôi tro vào mình.
Phía bên ngoài thành, có ao rồng và có một Bảo Tháp, do Vua A Dục xây. Nơi đây ngày xưa Như Lai đã vì Long Vương mà thuyết Pháp 7 ngày. Cạnh bên đó cũng có bốn Bảo Tháp nhỏ, chính là nơi bốn vị Phật trong quá khứ tọa thiền và kinh hành. Từ đây qua phía đông đi hơn 267 dặm, qua sông Hằng, đến nước Tỳ La Sắc Noa.
14) Nước Tỳ La Sắc Noa chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 10 dặm. Khí hậu và phong thổ giống nước Ác Ê Chế Đản La. Phong tục mạnh mẽ, con người hiểu biết về nghệ thuật, sùng tín ngoại đạo ít kính tin Phật Pháp. Có hai ngôi Già Lam, và 300 Tăng Sĩ tu theo phái Đại Thừa. Có năm ngôi đền thờ Ngoại Đạo sống hỗn tạp với nhau. Trong thành lớn có chùa và có Bảo Tháp, cao hơn 100 thước, do Vua A Dục dựng lên. Như Lai ngày trước ở tại nơi đây thuyết kinh Uẩn Giới Xứ. Phía nầy lại có di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành.
Từ đây qua hướng đông nam, hơn 200 dặm, đến nước Kiết Tỷ Tha.
15) Nước Kiết Tỷ Tha chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 20 dặm. Khí hậu đất đai cũng như nước Tỳ La Sắc Noa. Phong tục thuần hòa, người người ưa học, có nhiều nghệ thuật. Có bốn ngôi Già Lam và hơn 1000 người tu theo phái Chánh Lượng Bộ thuộc Tiểu Thừa. Có 10 đền thờ. Ngoại đạo thờ Đại Tự Tại Thiên sống hỗn tạp với nhau. Có một ngôi chùa lớn cách thành phía tây hơn 20 dặm, có những bản kinh khắc rất công phu và tôn tượng các vị Thánh cực kỳ trang nghiêm. Có hơn 100 Tăng sĩ tu theo Chánh Lượng Bộ và hơn 10 ngàn tịnh nhơn cư trú nơi đây. Chùa rất lớn, thờ Tam Bảo bên trong và ba bên đông nam bắc đều để trống. Đây là nơi đức Như Lai từ cõi Tam Thập Tam Thiên trở về. Ngày xưa đức Như Lai từ rừng Tự Thắng để vào Thiên cung. Ngài ngự nơi Thiện Pháp Đường thuyết Pháp cho mẹ. Sau ba tháng muốn trở lại trần gian. Nên Thiên Đế Thích mới dùng thần lực kiến tạo một cái thang báu toàn bằng vàng ròng, bên trái bằng thủy tinh, bên phải bằng bạc trắng. Đức Như Lai đã từ Thiện Pháp Đường được chư thiên cung tiễn đến thang lầu. Đại Phạm Vương tay cầm cây phất trần màu trắng đứng chờ ở đầu thang bên phải của thang lầu. Thiên Đế Thích cầm bảo cái bằng thủy tinh đứng chờ ở phía bên phải. Thiên chúng từ hư không rải hoa báu cúng dường và tán thán công đức của Phật. Trăm năm về trước cũng chưa có ai được, và mãi đến bây giờ cũng không cùng tận.
Vua các nước nhớ Ngài cho nên ra lệnh làm một trụ đá quý bằng trân bảo, ghi lại thang báu ngày trước. Trụ nầy cao 70 thước. Bên trên cùng khắc tinh xá, ở giữa khắc tượng Phật. Hai bên phải trái khắc hình Phạm Thiên Đế Thích để ghi nhớ nơi hạ thế của đức Phật. Bên cạnh đó cũng có một trụ đá do Vua A Dục xây cao hơn 70 thước màu sắc trong sáng. Phẩm chất chắc chắn. Bên trên có hình đầu Sư Tử hướng đến cầu thang và khắc những hình tượng khác chung quanh trụ đá nầy. Tùy theo tội phước của mỗi người mà ảnh của mình hiện lên trên trụ đá đó.
Bên cạnh trụ đá không xa, có một Bảo Tháp. Nơi đây ghi lại dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ tọa thiền và kinh hành. nơi Tháp nầy, ngày xưa là nơi của Như Lai tắm rửa. Tháp cũng là nơi Như Lai thiền định. Bên cạnh Tháp có một tảng đá rất lớn dài 50 bước, cao 7 thước. Đây là nơi kinh hành của đức Như Lai, dấu chân của Phật in xuống đó thành hình hoa sen. Hai bên tả hữu đều có những tháp nhỏ do Đế Thích và Phạm Vương kiến tạo nên. Phía trước tháp của Phạm Thiên Đế Thích là nơi mà Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc muốn thấy Phật trước, nên hóa làm Vua chuyển Luân Vương. Khi Như Lai từ Tự Tại Thiên Cung trở lại Nam Thiệm Bộ Châu. Lúc đó ông Tô Bộ Thị (Thiện Hiện Tu Bồ Đề) đang ở trong động đá suy nghĩ rằng:
Nay Phật từ Thiên Cung trở về, nếu đến đó nghe Phật thuyết Pháp thì sẽ biết được các Pháp Không và Tánh của các Pháp nên dùng Huệ Nhãn để quán Pháp Thân của Phật. Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc muốn thấy Phật trước nên hóa làm Chuyển Luân Vương, có binh lính theo hầu bốn bên, trải đường đi bằng bảy báu, gặp đức Thế Tôn và thưa rằng:
- Con là Tỳ Kheo Ni.
Lúc ấy đức Như Lai bảo rằng:
- Ngươi không phải là người đón ta đầu tiên mà kẻ có duyên ấy là người quán về Pháp Không nên thấy được Pháp Thân ta trước. Thánh tích nầy rất linh thiêng và được lưu truyền như thế. Phía đông nam của Bảo Tháp có một ao rồng được làm nên để bảo vệ thánh tích, nhằm ngăn chận những ai khinh phạm. Thời gian năm tháng tự tàn hoại. Không ai có thể phá được. Từ đây đi về phía đông nam ít hơn 200 dặm đến nước Yết Nhã Cúc Xà (Kanjakubja).
LeGiang is offline  
Đã có thành viên gửi lời cám ơn đến LeGiang vì bạn đã đăng bài:
autoche (08-11-2022)
Old 06-07-2007, 10:54 PM   #10
Hồ sơ
LeGiang
Banned
 
Tham gia ngày: Jan 2005
Số bài viết: 473
Tiền: 25
Thanks: 41
Thanked 595 Times in 241 Posts
LeGiang is an unknown quantity at this point
Default Quyển thứ năm

Quyển thứ năm
(6 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn
1. Nước Yết Nhã Cúc Xà (Kanjakubja)
2. Nước A Du Đà
3. Nước A Dà Mục Khứ
4. Nước Bát La Dà Dà
5. Nước Kiều Thường Di
6. Nước Bi Tác Ca

1) Nước Yết Nhã Cúc Xà (Kanjakubja), có chu vi hơn 4000 dặm. Thủ đô bốn bên giáp với sông Hằng. Chiều dài 20 dặm. Chiều ngang 4.5 dặm. Thành được bao bọc rất kiên cố. Hoa trái cây cối soi bóng xuống mặt hồ phản chiếu như trong gương. Những nước phương xa đem hàng hóa đến đây tụ tập buôn bán rất nhiều. Người ở tại đây rất sung túc. Nhà cửa giàu có. Hoa quả đầy đủ. Lúa gạo dồi dào. Khí hậu ôn hòa gió mát. Phong tục thuần chất. Người dung mạo xinh đẹp, trang sức lộng lẫy, học rộng, thích nghiên cứu nghệ thuật, đàm luận cao siêu và sùng tín Tà Chánh như nhau. Có hơn 100 ngôi Già Lam và 10 ngàn Tăng Sĩ tu theo cả hai hệ phái Đại Thừa và Tiểu Thừa. Có hơn 200 ngôi Đền thờ và hơn 1000 ngoại đạo.
Nước Yết Nhã Cúc Xà (Kanjakubja), người dân sống lâu. Ngày xưa Vương Thành có tên là Câu Tô Ma Bổ La (Kusumapura)và Vua tên là Phạm Thọ. Phước Trí đầy đủ văn võ song toàn, uy hiếp xâm chiếm khắp nơi làm cho các nước lân bang khiếp sợ. Vua có 1000 người con trai, mưu trí dũng lược, và 100 người con gái tuyệt thế giai nhân. Lúc bấy giờ có một vị tiên nhân ngồi nhập định ở phía sông Hằng qua hàng vạn năm thân hình như củi khô. Chim chóc tập trung để ở, nơi quả A Na Luật trên vai ông tiên. Mùa nóng qua, mùa lạnh đến đều không xao động. Trải qua nhiều năm như thế mà không muốn xả thiền, đi khỏi nơi nầy vì sợ ổ chim bị động, cho nên người đời cảm đức đặt tên là Đại Thọ Tiên Nhơn. Một hôm ngồi trên bờ sông thấy Vua và các công chúa đang đùa giỡn trong rừng, nên khởi ái dục, sanh tâm nhiễm trước. Ngài muốn đến Hoa Cung thi lễ. Vua nghe tin Tiên nhơn đến vui vẻ nghinh tiếp và nói:
Đại tiên là bậc đứng ngoài tình cảm nhưng tại sao bị khích động như thế?
Tiên nhơn đáp:
- Ta ở trong rừng sâu lâu năm rồi. Khi xuất định ra đi, thì thấy vua và các công chúa xinh đẹp đùa giỡn như thế, nên tâm đã sinh nhiễm ái mà từ xa đến đây vậy.
Vua nghe như vậy rồi không biết làm sao nên bảo Tiên nhơn rằng:
- Ngài hãy vui vẻ về rừng đi đừng yêu cầu gì nữa.
Tiên nhơn trở về. Vua hỏi từng người con nhưng không ai ưng thuận. Thấy Vua bị Tiên nhơn uy hiếp mà lo sầu. Cho nên công chúa nhỏ nhất của Vua liền thưa:
-Thưa Phụ Vương, Ngài đã có cả ngàn thiên tử và đầy đủ chư hầu sao lại ưu sầu lo lắng như thế?
Vua đáp:
- Đại Thọ Tiên Nhơn muốn cầu hôn nhưng các chị của con không có ai đồng ý. Tiên nhơn có uy lực rất lớn có thể gây nên binh lửa. Nếu không thuận theo, ông ta giận dữ. Nước ta bị diệt làm sao ăn nói với tiên vương. Vì thế cha mới khổ tâm.
Cô công chúa nhỏ thưa rằng:
- Con xin phạm thượng làm để cha bớt sầu lo. Con nguyện đem thân nhỏ bé của con giúp nước trường cửu. Vua nghe như thế rất hoan hỷ ra lệnh cho xe giá mang đi. Khi đến chỗ ở của tiên nhân, nói lời cảm tạ rằng:
- Tiên nhơn vì tình nghĩa nầy xin ở bên ngoài mà lo lắng cho thế gian. Nay xin gửi ấu nử để hầu hạ.
Tiên nhơn thấy vậy chẳng vui bèn nói với Vua rằng:
- Khinh lão già nầy đến thế sao mà gửi người chẳng đẹp gì hết.
Vua nói:
- Tôi đã hỏi qua các người con, nhưng không có ai đồng ý, chỉ có ấu nữ nầy nguyện hiến thân mà thôi.
Tiên nhơn giận dữ đọc tà chú và nói rằng:
- Chín mươi chín công chúa kia chỉ trong giây lát nữa ngực và lưng sẽ bị thương tổn và suốt đời không kết hôn được.
Vua sai người chạy về xem xét, thì đúng là lưng họ đã gù rồi. Cho nên từ đó về sau người ta gọi đây là Thành những cô công chúa gù.
Nhà Vua thuộc dòng Phệ Xá gọi là Yết Lợi Sa Phạt Đằng Na. Tại đây, Ba vua mà chỉ hai đời thôi. Tên của Phụ Vương là Ba La Yết La Phạt Đà La. Tên của Người Anh là Yết La Bạt Đà La, Vua lấy Đức để trị vì nên được lâu dài.
Lúc bấy giờ phía đông Ấn Độ nước Yết La Nô Tô Phạt Sắc La thiết lễ để thưởng cho Vua. Cho nên có vị quan nói rằng:
- Nước lân bang có vị Vua Hiền nhưng lại là hiểm họa, nên dụ thỉnh đến để hại. Khi Vua mất, thì nước ắt loạn.
Lúc bấy giờ Đại Thần Bà Ni chức vị cao liền thưa rằng:
- Chỉ trong ngày hôm nay định kế cho quốc gia. Con của Vua trước đã mất. Em của Vua rất là nhơn từ. Thiên tánh hiếu kính nhân tâm, xa gần đều thuận, mà muốn soán được địa vị nầy thì phải làm thế nào, để cho mọi người quy nguỡng cái đức mà không có sự dị nghị âm mưu.
Lại có vị Đại Thần khác khuyên rằng:
- Vương tử cũng biết rằng tiên vương tích công bồi đức làm cho nước nầy hòa bình cho nên khó mà giết Vua đó lắm. Ai trong chúng ta có thể hy sinh mà ra tay. Vì nước mà không xấu hổ tội lỗi với đời.
Hay điều đình mà tựu trung vẫn sáng cái Đức. Nếu chúng ta đến họ bàn việc thân thù không xấu hổ với sự nghiệp của cha mình ngày trước. Công rất lớn mà Hạnh cũng không sao kể hết.
Vương tử nói rằng:
-Việc nước vẫn là việc lớn xưa nay đều khó. Địa vị của vua ở nơi trừng phạt. Ta hôm nay thừa đức của cha và anh để lại mà nắm giữ ngôi trời há có thể dễ lắm ru. Điều đình có thể sinh ra sự nghi ngờ thiện chí không biết hư thật ra sao cho nên ta sẽ đến bờ sông Hằng để bạch lên tượng Bồ Tát. Vì tượng nầy có nhiều linh nghiệm qua sự thỉnh cầu. Sau đó liền đến nơi trước tượng Bồ Tát nhịn ăn trong bảy ngày để cầu thỉnh. Bồ Tát cảm ứng sự thành tâm mà hiện ra nói rằng:
- Ngươi cầu gì mà thành tâm như thế?
Vương Tử đáp:
- Con thật là khó xử. Khi cha con mất có dặn phải cáo phạt lân bang, trong khi đó anh con lại thấy hại đến đạo đức. Nhân dân tuy tôn trọng Vương quyền mà ánh sáng của phụ thân về cơ nghiệp, làm sao khỏi bị trách là ngu muội, khi mà trái Thánh Chỉ ấy.
Bồ Tát bảo rằng:
- Kiếp trước ngươi là vị Tỳ Kheo tu ở núi rừng nầy rất là tinh tấn chưa từng giải đãi. Nhờ phước đó nay trở thành Vương Tử. Vua nước Kim Nhi đã hủy hoại Phật Pháp, nay nếu muốn cho ngai vàng được hưng long mà làm hoại lòng từ bi và phá nát đi tình thương ấy, chẳng bao lâu nữa, biên giới của năm vua Ấn Độ muốn cho đất nước được hòa bình, phải nghe lời ta mà sám hối. Nếu chẳng nghe, khó mà địch nổi phước của lân bang. Chớ vội lên ngồi tòa Sư Tử, chớ vội xưng Vương Hiệu.
Vương Tử nghe như thế xin lãnh thọ rồi lui. Sau khi lên ngôi, Vương Tử hiệu là Thi La A Dật Đa. Lúc đó có vị đại thần nói:
- Thù của anh chưa trả, nước kia chưa phải là khách. Cho đến trọn đời không đưa cơm bằng tay phải.
Mọi người đều đồng tâm hiệp lực và toàn quốc chuẩn bị binh lính chiến mã ngựa voi ứng chiến gồm có: 5000 thớt voi trận, 20 ngàn ngựa chiến, 50 ngàn bộ binh. Từ phía tây bất thần thả quân chinh phạt xuống phía đông, nhưng voi không buộc yên và người không áo giáp. ròng rã sáu năm trong năm nước Ấn Độ. Vì đất đai rộng cho nên phải tăng quân số lên đến 60 ngàn con voi trận, 10 ngàn con ngựa chiến, đóng giữ biên thùy 30 năm mà chưa khởi chiến. Chính giáo hòa bình vì việc tu duỡng mà tiết kiệm vun bồi cây phước đức để tưới tẩm món ăn thiện cho mọi người, cho nên ra lệnh năm nước Ấn Độ không được ăn thịt. Nếu ai giết hại sinh mệnh, sẽ bị tru di không người kế tự. Từ đó ở sông Hằng kiến lập hàng ngàn Bảo Tháp. Mỗi tháp cao hơn 100 thước. Và khắp nơi thành ấp của năm xứ Ấn Độ đều cho xây dựng chỗ ngồi Thiền. Tích trữ đồ ăn thức uống cũng như thưốc men để bố thí cho kẻ bần cùng và người cô quả. Nơi Thánh tích cho lập chùa viện, và cứ 5 năm tổ chức một lần Vô giá đại hội (thí thực). Xuất lương thực trong kho để bố thí cho mọi người, duy chỉ giữ lại binh khí không nên cho đi. Cứ mỗi năm một lần cung thỉnh Sa Môn khắp nơi lại để cúng dường tứ sự trong hai mươi mốt ngày. Để trang nghiêm Pháp Tòa và rộng mở trai diên nên yêu cầu đàm luận với nhau để biết cao thấp. Những người không có khả năng thì yên lặng, còn kẻ có giới hạnh đạo đức nhuần thấm thì được cung thỉnh thăng tòa thuyết pháp cho Vương tôn, công tử thọ Pháp. Chỉ có giới đức thanh tịnh mới có thể đối lại cái học xưa nay, mà từ đó mọi người mới kính lễ tôn sùng. Nếu Luật Nghi không có kỷ cương thì đạo đức bị chướng ngại. Phải ra khỏi biên giới của quốc gia và nguyện không bao giờ thấy lại.
Đối với nước lân bang, Tiểu Vương cùng với một vị đại thần, vì phước đức của quốc gia mà không nại khó khăn sang cầu hòa làm bạn, nhưng không nói một lời khi đối mặt. Mọi viêc chỉ là nghe lời Sắc Nghị giao hảo rồi về. Vua đi thăm các tỉnh, không dừng lại ở đâu lâu. Đi đến đâu cũng dừng lại để tham thiền. Chỉ có mùa mưa ba tháng là không đi, còn mỗi ngày đều đi như thế để khất thực cùng với 1000 tăng chúng và 500 Bà La Môn. Mỗi ngày chia ra ba thời, một thời lý luận về chính trị còn hai thời khác làm phước tu thiện, không có ngày nào, không làm đủ như thế.
Vua Câu Ma La Vương vừa phong vương thỉnh ý rằng:
- Từ nước Ma Yết Đà đi qua nước Ca Ma Lầu Ba, gặp Vua Giới Nhật đang tuần du ở tại nước Yết Chư Ôn Đệ La, ra lệnh cho Vua nước Câu Ma La nên báo cho vị khách Sa Môn ở xa tại Na Lan Đà đến đây phó hội. Tức thì Vua Câu Ma La đến hội kiến. Vua Giới Nhựt bảo rằng:
- Đến từ nước nào và mong muốn điều gì?
Trả lời rằng:
- Từ nước Đại Đường đến để cầu Phật Pháp.
- Nước Đại Đường là nước ở đâu vậy? Đi bao lâu mới đến đây?
Đáp rằng:
- Từ phía đông bắc hơn 10 ngàn dặm của xứ Ấn Độ nầy thì đến được nước kia.
Vua nói:
- Ta thường nghe từ Ma Ha đến nước kia thì có Tần Vương thiên tử từ nhỏ vốn đã hiên ngang uy vũ. Từ xưa đã chinh phạt các nước khác, dấy binh chinh chiến khắp nơi. Mà Tần Vương Thiên Tử sớm mong cơ đồ đã dùng từ bi tế độ tất cả chúng sanh, chinh phục năm châu bốn bể. Làn gió ấy mang đức đến cai trị các phương khác. Sau đó xưng Vương. Mọi người được nhờ ân và có lời ca rằng:
- Tần Vương vui phá trận. Nghe được lời xưng tụng, Đức độ được thấm y. Người người cũng vui lây:
- Người của nước Đại Đường há có biết điều nầy là tà chăng?
Đáp rằng:
- Khi đến đó đối trước mặt Vua, thì biết được tên nước.
- Đó là nước Đại Đường. Nước ấy có Vua mà từ xưa nay ngôi vị đươc gọi là Vua Tần, và bây giờ truyền thừa cho đến ngày nay gọi là Thiên Tử. Thiên Tử là người thay thế cho vận mệnh phía trước đã xong vì quần sanh không có người làm chủ nên đã đem binh nổi loạn, cung tên làm hại sinh linh. Vua Tần là Thiên Tử, dụng tâm từ mẫn, uy phong lẫm liệt chưa bao giờ hết, tám phương yên ổn, vạn nước triều cống; trải lòng thương đến muôn loài và sùng kính Tam Bảo. Những kẻ có tội được giảm. Dùng tục lệ của mình để không bị chôn vùi. Phong tục tập quán khó mà chuyển hóa thì được bổ sung.
Vua Giới Nhựt bèn nói rằng:
- Tốt lành thay, nhân dân của nước kia, thật là có phước nên cảm đến vua của họ.
Sau đó Vua Giới Nhựt trở về lại thành Khúc Nữ để thuyết Pháp Hội cúng dường. Cùng đi với vua có hơn 10 vạn người đến phía Nam bờ sông Hằng. Còn Vua Câu Ma La cũng đến với một vạn người ở bờ sông phía bắc. Phân chia dòng sông ở giữa rồi hai bên cùng tiến. Hai vua cùng có bốn loại binh lính rất nghi vệ. Hoặc dùng thuyền, hoặc cỡi voi, đánh trống, thổi sáo. Trải qua 90 ngày mới đến thành Khúc Nữ. Tại phía Tây của sông Hằng, nơi giữa rừng Hoa, lúc bấy giờ các Vua của hơn 20 nước cùng ra lệnh cho các Sa Môn của nước họ cùng các Bà La Môn, quan quân tướng sĩ đến tham dự Đại Hội. Trước tiên nhà Vua cho xây dựng chùa ở phía Tây của sông và phía đông cho dựng bảo đài quý báu, cao hơn 100 thước, ở giữa có tượng Phật bằng vàng lớn bằng thân Vua. Đài phía Nam, dựng đàn tràng để tắm tượng Phật. Ở phía Đông Bắc 14.5 dặm cho kiến tạo hành dinh. Lúc ấy vào giữa mùa Xuân. Từ ngày 1 đến ngày 21 dùng những món ngon vật lạ để cho các vị Sa Môn và Bà La Môn đến hành dinh và Già Lam để cúng dường. Trên đường đi nhà cửa được trang sức, người người vui vẻ và ở đâu cũng nghe tiếng sáo thổi. Nhà Vua từ hành dinh ra đi với một con voi vàng, con voi ấy cao đến ba thước mang một cây cờ. Vua Giới Nhựt mặc đồ Đế Thích. Tay trái cầm Bảo Cái đứng chờ Vua Câu Ma La đã làm Nghi Lễ cầu thỉnh Phạm Vương. Tay cầm phất trần trắng đứng chờ bên phải. Mỗi bên đều có năm trăm voi chiến và trước sau đều có tượng Phật. Trên trăm voi đó các nhạc công cỡi voi đánh trống và tấu nhạc. Vua Giới Nhựt đã dùng hoa bằng vàng bạc và các thứ trân châu quý giá rải khắp nơi để cúng dường Tam Bảo. Đầu tiên đến Bảo Đài để dâng hương và dùng nước để tắm tượng. Nhà Vua cùng những người cận thần đã gửi đến bốn đãy các đồ trân quý kiêu sa, với số lượng đủ trăm ngàn mà làm lễ cúng dường. Lúc đó chỉ có hơn 20 vị Sa Môn đến dự. Các Vua chúa hầu hạ cơm nước xong, tập trung lại để học hỏi đắn đo nói lời nhỏ nhẹ:
- Ngưỡng mong hiểu được Chân lý
Khi mặt trời lặn trở về lại hành dinh. Cứ như thế mỗi ngày cho voi Vàng ra đi như ngày đầu cho đến ngày cuối cùng. Đài lớn tự nhiên phát hỏa, Chùa Viện cũng lên khói. Vua nói:
- Đã vì tiên vương mà bỏ hết của báu của quốc gia để kiến lập nên Già Lam nầy, nhằm để ra khỏi nghiệp lực, chưa có đủ đức và chưa có thần giúp, cho nên lửa cháy mới khổ như thế này làm sao cứu được sự sống nầy nên đốt hương để bái thỉnh và tự thệ rằng: Vì túc nghiệp làm thiện của các vị Vua Ấn Độ đời trước nguyện cho phước lực của tôi đầy đủ để diệt được đám lửa cháy kia. Nếu không có sự chiêu cảm ở nơi nầy thì con sẽ bỏ mạng đọa xuống địa ngục, như nghiệp con sạch lửa sẽ tắt ngay.
Các vị Vua khác vây quanh nơi Đề Cù, thấy nhan sắc không thay đổi không nói gì cả, đoạn hỏi các Vua rằng:
- Nếu hỏa tai nầy cháy hết, trong tâm của mọi người còn mong gì nữa không?
Các Vua phủ phục khóc lóc và nói rằng:
- Sự thành công để lại kỳ tích truyền lại đời sau, còn nếu chẳng may bị lửa cháy thì còn gì mà để lại. Huống nữa ngoại đạo còn khoái lên mặt. Vua bảo:
Hãy quán sát điều nầy như Như Lai đã nói rõ chỉ có ngoại đạo mới chấp Thường kiến, còn bậc Đạo Sư của chúng ta chỉ rõ về Vô Thường, cho nên ta đã xả bỏ các đàn nầy như chỗ tâm nguyện đã cố ý, tùy theo đó mà biến diệt. Phải hiểu rằng đó là chân lý như thật mà Như Lai đã thuyết. Hãy biết rằng đó là điều tốt chẳng có gì sầu bi cả.
Nơi đó các Vua ở phía đông leo lên các Bảo Tháp để xem ở phía dưới đất liền thấy có người mang dao đi về phía Vua. Vua liền tiến tới giữ người ấy lại và gọi các quan. Lúc bấy giờ các quan hoảng hốt không biết cứu làm sao. Cho nên các Vua đòi giết người ấy, nhưng Vua Giới Nhựt mặt không đổi sắc ra lệnh đừng giết.
Vua mới hỏi rằng:
- Ta phạm điều gì mà người làm điều bạo ác như thế.
Kẻ ấy nói rằng:
- Đức của Đại Vương nhuận khắp trong ngoài đâu có gì mà phạm. Tôi chỉ là kẻ cuồng ngu chẳng có mưu kế sách lược. Vì chỉ nghe lời ngoại đạo làm kẻ nghịch hại thích khách.
Vua nói:
- Cớ sao ngoại đạo có ác tâm nầy?
Kẻ ấy thưa:
- Vì Đại Vương đã tập họp các nước, lấy của cải trong kho để cúng dường cho Sa Môn, tạo tượng trang nghiêm, nên ngoại đạo biết việc đó mà triệu tập lại không ngại một kế nhỏ, trong lòng đầy xấu xa ra lịnh kẻ cuồng ngu nầy làm việc dối trá hung dữ. Họ nghiên cứu và hỏi các ngoại đạo khác gồm 500 Bà La Môn và các Bậc Cao Đức đều đã được triệu tập để phá các vị Sa Môn mà nhà Vua thường kính lễ, ra lệnh bắn những tên lửa vào các lễ đài nầy. Vì nguyên nhân cứu lửa mà mọi người nổi loạn. Nhân cơ hội nầy họ cho sát hại Đại Vương. Nay tôi đã khỏi chết mà còn được nhà Vua chiếu cố đến người đi hành thích.
Lúc bấy giờ các Vua khác và đại thần yêu cầu chém Ngoại Đạo nầy, hoặc là trừng trị kẻ làm ác để trừ khử và đuổi 500 ngoại đạo và Bà La Môn ra khỏi Ấn Độ hoặc cho về lại quê hương của chúng.
Phía Tây bắc của thành có một Bảo Tháp, do Vua A Dục dựng nên để ghi dấu ngày xưa Như Lai đã thuyết Diệu Pháp 7 ngày và cũng là nơi ghi lại dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ đã đi kinh hành tọa thiền. Lại có một Bảo Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Phía Nam của tháp nơi đức Phật thuyết Pháp giáp với sông Hằng lại có ba ngôi chùa cùng một nơi nhưng khác cửa. Tượng Phật trang nghiêm. Tăng chúng trang nghiêm hòa hợp. Có hơn 1000 người Phật tử. Trong tịnh xá có lưu giữ răng của Phật dài một tấc rưỡi xưa, thường phát ra ánh sáng và màu sắc, thay đổi vào hai buổi sáng và tối. Hằng ngày có hơn trăm ngàn người liên tục đến lễ bái tu học chiêm nguỡng. Kẻ giữ gìn nơi đó đã ra một loại thuế lạ lùng cho mọi người xa gần biết rằng muốn thấy được răng Phật thì phải bị thâu tiền. Vì vậy, người chiêm bái phẫn nộ với các vị Tăng Sĩ. Tiền bạc thuế má đã tạo cho họ một sự cạnh tranh. Cho nên cứ mỗi buổi trưa xá lợi được an trí nơi cao nhất để trăm ngàn người có thể rải hoa cúng dường. Hoa rơi chồng chất trên hộp đựng răng không kể xiết. Hai bên phải trái phía trước chùa đều có Tinh Xá, cao hơn 100 thước. Lấy đá làm phòng, ở trong đó các tượng Phật được trang nghiêm bằng đồ trân bảo hoặc bằng vàng bạc, hoặc bằng đá quý. Trước hai tinh xá nầy, nơi nào cũng có một chùa nhỏ.
Không xa mấy phía đông nam của Già Lam nầy lại có một đại tinh xá. Nền móng đều bằng đá cao hơn 200 thước. Ở giữa có tạo tượng đức Như Lai cao 30 thước, làm bằng đá hoa cương, màu sắc rất đẹp mắt. Chung quanh tinh xá, tường được làm bằng đá từ dưới lên trên điêu khắc chạm trỗ. Lúc Như Lai còn hành hạnh Bồ Tát. Những sự tích như vậy, cũng được khắc họa đầy vách.
Phía nam của tinh xá bằng đá đó không xa, lại có một đền thờ mặt trời và phía Nam của đền thờ này lại có một đền thờ Đại Tự Tại Thiên, được xây dựng bằng đá ngọc thạch xanh và chạm trỗ rất tinh vi quy mô to lớn cũng giống như tinh xá thờ Phật bên kia. Bên nầy cũng có một ngàn người lo việc quét dọn. Trổi nhạc ca hát suốt đêm.
Phía đông nam của đại thành 6.7 dặm về phía Nam của sông Hằng có một Bảo Tháp nữa cao hơn 200 thước do vua A Dục xây dựng. Chính tại nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp trong vòng 6 tháng về sự vô thường, khổ, không, bất tịnh của thân thể. Phía nầy cũng là nơi ghi lại di tích kinh hành tọa thiền của bốn vị Phật trong quá khứ. Lại cũng có Bảo Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Người nào có bịnh nặng trầm kha, thành tâm đến đây đi lễ tháp bệnh kia nhờ phước đức nầy sẽ được thuyên giảm. Phía Đông Nam của đại thành đi hơn 200 dặm, đến thành Nạp Phược Đề Bà Cự La, nằm bên phía đông của bờ sông Hằng, chu vi hơn 20 dặm có rừng cây soi bóng trên hồ nước phản ảnh chiếu sáng lung linh trông rất đẹp mắt.
Phía tây bắc của thành Nạp Phược Đề Bà Cự La là sông Hằng. Phía đông của sông nầy có một đền thờ. Đền thờ kiến trúc rất tinh vi đẹp đẽ. Phía đông của thành 5 dặm có ba ngôi Già Lam cùng một nơi, nhưng cửa đi lại khác. Có hơn 500 Tăng Sĩ, tu theo phái Tiểu Thừa, thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Mặt trước của chùa đi hơn 200 bước lại có một Bảo Tháp, do Vua A Dục xây, nền móng vững chắc cao hơn 100 thước. Nơi đây ghi lại ngày xưa, đức Như Lai đã thuyết pháp bảy ngày. Trong tháp ấy có Xá Lợi, thường phóng ra hào quang và chính nơi đây cũng là nơi ghi lại dấu tích và là nơi kinh hành tọa thiền của bốn vị Phật trong quá khứ. Phía bắc của chùa nầy cách 3.4 dặm, đến bờ sông Hằng. Ở đó có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước, do Vua A Dục kiến tạo nên, để ghi lại nơi đây ngày xưa đức Như Lai đã thuyết Pháp bảy ngày. Lúc bấy giờ có 500 Ngạ Quỷ đến nơi Phật thuyết Pháp, sau đó giác ngộ bỏ thân quỷ mà được sanh Thiên, bên cạnh Bảo Tháp Thuyết Pháp cũng là nơi ghi lại dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ kinh hành và tọa thiền. Nơi đây cũng có Bảo Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Từ đây đi về hướng đông nam hơn 600 dặm qua sông Hằng, phía Nam đến nước A Du Đà.
2) Nước A Du Đà, chu vi 5000 dặm. Đô thành chu vi hơn 20 dặm. Nông nghiệp rất thịnh hành. Hoa quả tốt tươi. Khí hậu ôn hòa. Gió mưa phong tục đều tốt đẹp. Người thích tu phước, siêng năng học tập. Có hơn 100 ngôi Già Lam, hơn 3000 Tăng Sĩ, theo cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Có 10 đền thờ và ít ngoại đạo. Bên trong thành lớn có một ngôi chùa cũ có thờ đức Phạt Tô Bán Độ (Vasubandhu) Bồ Tát (Thế Thân-Thiên Thân). Ngài ở đây hơn 10 năm, để soạn ra các tác phẩm Luận Nghị giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa. Tại nơi nầy ngày xưa cũng là nơi mà Ngài Thế Thân Bồ Tát cũng vì các vị Quốc Vương ở bốn phương và các vị Sa Môn, Bà La Môn mẫn tuệ, giảng nghĩa và thuyết pháp nghị luận tại nơi đây. Phía bắc của thành hơn 4 dặm rưỡi, giáp bờ sông Hằng, nơi đây có một đại Già Lam, trong đó có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước do vua A Dục dựng lên. Nơi đây là nơi mà Như Lai đã vì trời người, các loài thuyết Diệu Pháp trong vòng ba tháng. Nơi đây cũng có Bảo Tháp ghi lại dấu tích của vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và tọa thiền. Già Lam phía Tây hơn 4.5 dặm, có Bảo Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Phía bắc của Bảo Tháp thờ tóc và móng tay, có một Già Lam, ghi lại dấu tích của luận sư về kinh bộ Thất Lợi Đa La (Thắng Thọ). Chính nơi nầy Ngài đã chế ra kinh bộ Tỳ Bà Sa. Phía tây nam của thành hơn 4.6 dặm có một rừng xoài trong đó có một ngôi Già Lam cũ. Nơi đây là nơi mà Bồ Tát A Tăng Già (Vô Trước-Asangha) đã vì phàm phu mà làm lợi ích. Một đêm Bồ Tát lên thiên cung gặp Bồ Tát Từ Thị để thọ lãnh Du Già Sư Địa Luận và Trang Nghiêm Đại Thừa Kinh Luận cũng như Trung Biên Phân Biệt Luận v.v....vì đại chúng mà giảng thật cặn kẽ tất cả những diệu lý nầy.
Phía Tây Bắc của vườn xoài hơn 100 dặm, có Bảo Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Chính nơi nầy là nơi mà ngài Thế Thân Bồ Tát đã từ trên cõi trời Đâu Suất hạ xuống thấy được ngài Vô Trước Bồ Tát. Ngài Vô Trước là người của nước Kiền Đà La. Ngài sinh ra sau khi Phật diệt độ 1000 năm, rất thông minh lanh lợi, thấy biết và gặp gỡ giáo Pháp Đại Thừa nên liễu ngộ theo Di Sa Tắc Bộ (Mahisasaka) xuất gia tu học. Sau đó, chuyển sang Đại Thừa vì người em là Thế Thân Bồ Tát đã xuất gia theo Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ mà hướng dẫn. Ngài là bậc nghe rộng hiểu nhiều nhớ lâu học kỹ nghiên tầm chín chắn. Người em của ngài Vô Trước là Phật Đà Tăng Hà (Buddhasimha Sư Tử Giác) ngài tu về Mật Hạnh. Những người học rộng tài cao đều nghe tiếng. Có hai ba hiền triết mỗi lần gặp Ngài đều nói:
Phàm những người tu Mật Hạnh nguyện cận kề bên đức Di Lặc liền được tùy tâm và có thể biết được nơi mà mình sắp đến. Sau đó ba năm, Ngài Sư Tử Giác sẽ bỏ thọ mạng nhưng không báo tin. Ngài Thế Thân Bồ Tát mới tìm đến nơi xả bỏ báo thân trải qua 6 tháng liền, nhưng cũng chẳng thấy đầu thai. Ở các nơi đạo khác cũng đều không có tin tức. Vì thế ngài Thế Thân Bồ Tát nghi rằng Sư Tử Giác đã lưu chuyển ác thú đọa vào chỗ Vô Linh Gián (Địa Ngục). Kế đó ngài Vô Trước Bồ Tát trong canh đầu của một đêm, đang dạy Thiền cho Tăng chúng, bỗng nhiên ánh sáng từ cây đèn phụt lên trên hư không, nơi đó có một vị tiên từ trên hư không đi xuống, đến trước thềm kính lễ ngài Vô Trước. Ngài Vô Trước hỏi:
- Ngài từ đâu đến và tên là gì?
Người kia đáp:
- Sau khi xả bỏ thọ mệnh, tôi được sanh lên cõi trời Đẩu Suất, sanh vào trong hoa sen nơi đức Từ Thị. Khi hoa sen nở đức Di Lặc tán thán rằng: Lành thay người có trí. Lành thay người có trí. Ông đã đi đến đây là xả bỏ thọ mệnh.
Vô Trước Bồ Tát hỏi:
- Ông có gặp Sư Tử Giác ở đâu không?
- Khi tôi đi nhiễu thì thấy Sư Tử Giác ở ngoại viện đang mê đắm hoan lạc, không đoái hoài gì đến báo thân thọ mệnh.
Bồ Tát Vô Trước hỏi:
- Thật như vậy sao? Ông có gặp đức Di Lặc không? Ngài đang thuyết Pháp gì vậy?
- Có gặp, Ngài bảo chưa nên nói và đang diễn thuyết Diệu Pháp giống hệt như ở đây. Tiếng của Bồ Tát Diệu Âm thanh tao hòa nhã, nghe không mệt, nhận không chán.
Phía bên tây bắc của giảng đường Vô Trước hơn 40 dặm đến một ngôi chùa cổ, phía bắc giáp với sông Hằng, ở giữa có một Bảo Tháp rộng lớn cao hơn 100 mét. Đây là nơi mà ngài Thế Thân Bồ Tát sơ phát Đại Thừa tâm. Ngài Thế Thân Bồ Tát từ bắc Ấn Độ đến nơi đây. Lúc ấy ngài Vô Trước Bồ Tát bảo môn nhân ra nghinh tiếp. Khi đến Già Lam nầy, gặp gỡ và hội kiến với nhau. Đệ tử Vô Trước dừng ở phía ngoài cửa phòng vào ban đêm tụng kinh Thập Địa, ngài Thế Thân nghe rồi, cảm động giác ngộ và hối hận. Giáo Pháp thậm thâm vi diệu từ xưa đến nay chưa từng nghe qua. Sự phỉ báng trước đây phát xuất từ lưỡi nầy, mà lưỡi nầy là tội căn bản cho nên ta muốn cắt đi. Liền cầm dao lên và muốn tự cắt lưỡi. Lúc đó thấy ngài Vô Trước đến và bảo rằng:
Phàm muốn cho giáo lý Đại Thừa được tuyên dương mà chư Phật tán thán, chư Thánh đệ tử ca ngợi. Ta muốn sự hối quá của ông nên tự hiểu biết, mà sự hiểu biết đó không có gì hơn là dùng lưỡi nầy để phù trợ Thánh Giáo Đại Thừa chớ không nên cắt lưỡi. Trước đây lưỡi nầy hủy báng Đại Thừa thì bây giờ chính cái lưỡi đó nên tán thán Đại Thừa. Điều ấy có phải là một sự thay đổi tốt đẹp hơn không. Ngậm miệng im lời thì lợi ích hơn. Khi nói lời ấy xong rồi thì chẳng thấy đâu nữa. Ngài Thế Thân theo lời dạy ấy chẳng cắt lưỡi mà tiếp thọ Giáo Lý Đại Thừa. Từ đó nghiên cứu tinh chuyên tư tưởng để chế ra Đại Thừa Luận có cả trăm bộ như thế để tuyên dương Pháp nầy. Từ phía đông hơn 300 dặm đi qua sông Hằng đến phía bắc, gặp nước A Dà Mục Khứ.
3) Nước A Dà Mục Khứ, chu vi 2450 dặm. Đô thành tiếp giáp với sông Hằng chu vi hơn 20 dặm. Khí hậu và phong thổ nước nầy giống như nước A Du Đà. Nhân tình thuần hậu. Phong tục chất phác. Siêng năng học tập và làm phước bố thí. Già Lam có năm cảnh và Tăng tín đồ hơn 1000 người. Họ học theo phái Tiểu Thừa Chánh Lượng Bộ. Đền thờ có 10 ngôi. Ngoại Đạo sống hỗn tạp.
Phía đông nam của thành không xa, thì gặp sông Hằng. Bên bờ sông có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng nên cao hơn 200 thước. Nơi đây là nơi ghi lại đức Như Lai ngày xưa thuyết pháp ba tháng. Ở tại phía đây cũng có di tích ghi lại nơi tọa thiền và kinh hành của bốn vị Phật trong quá khứ. Nơi đây cũng có Bảo Tháp bằng đá để tôn thờ tóc và móng tay của Như Lai. Tăng Già Lam nầy có hơn 200 người. Họ trang sức tượng Phật rất uy nghiêm tự tại. Có nhiều nhà cửa rộng rãi bên cạnh. Đây là nơi ngày xưa Phật Đà Đà Bàn (Giác Sử) luận sư đã chế ra Đại Tỳ Ba Sa Luận thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ, từ đây qua phía đông nam đi hơn 700 dặm qua sông Hằng và tiếp đến là sông Diêm Mâu Na, đến phía bắc, gặp nước Bát La Dà Dà.
4) Nước Bát La Dà Dà, chu vi hơn 5000 dặm. Đô thành nằm hai bên sông giao nhau. Chu vi hơn 20 dặm. Họ sống bằng nghề trồng trọt lúa và hoa quả. Khí hậu ôn hòa. Phong tục tập quán hiền lành, ham học nghề nghiệp, tin theo Ngoại Đạo. Có hai ngôi Già Lam, ít Tăng Sĩ. Họ tu theo phái Tiểu Thừa, Có hơn 100 ngôi đền. Ngoại Đạo sống hỗn tạp. Phía tây nam thành lớn, ở giữa rừng cây Bát Ca Hoa, có một Bảo Tháp do Vua A Dục dựng lên.
Tháp nầy cao hơn 100 thước, nơi đây ghi lại ngày xưa đức Như Lai đã hàng phục ngọai Đạo. Bên cạnh đó có tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai, cùng nơi kinh hành và nhiễu Phật.
Bên cạnh Tháp thờ tóc và móng tay, có một ngôi chùa cũ. Nơi đây ngài Đề Bà (Thiên Thọ) Bồ Tát đã tạo ra Quảng Bách Luận. Nhằm khuất phục Tiểu Thừa và hàng phục Ngoại Đạo. Đầu tiên Đề Bà Bồ Tát đến ở chùa nầy. Ở trong thành có nhiều Ngoại Đạo Bà La Môn. Họ là những bậc luận sư biện tài vô ngại. Khi nghe đến tên, không thể không biết đến được tuy họ biết ngài Đề Bà là người nghiên cứu sâu về áo nghĩa của kinh điển. Họ vẫn muốn luận đạo với ngài, lại hỏi về tên tuổi.
- Ông tên gì?
Đề Bà đáp:
- Tên là Trời
Ngoại Đạo hỏi:
- Trời là ai?
Đề Bà đáp:
- Là Ta
Ngoại Đạo hỏi:
- Ta là ai?
Đề Bà đáp:
- Là con Chó
Ngoại Đạo hỏi:
- Chó là con nào?
Đề Bà đáp:
- Nhà Ngươi
Ngoại Đạo hỏi:
- Nhà Ngươi là ai?
Đề Bà đáp:
- Là Trời
Ngoại Đạo hỏi:
- Trời là ai?
Đề Bà đáp:
- Là Ta
Ngoại Đạo hỏi:
- Ta là ai?
Đề Bà đáp:
- Là Chó
Ngoại Đạo hỏi:
- Ai là Chó?
Đề Bà đáp:
- Là Ngươi
Ngoại Đạo hỏi:
- Ngươi là ai?
Đề Bà đáp:
- Là Trời.
Cứ như thế mà hỏi qua đáp lại. Ngoại Đạo bèn ngộ, tự mình cung kính thâm sâu về phong cách đó. Trong thành có đền thờ, trang trí cực kỳ linh động đẹp đẽ. Theo những điển tích biết được nơi nầy chính là nơi chúng sanh gieo trồng phước đức rất nhiều. Vì đã cúng dường cho đền thờ một quan tiền và với công đức đó đã trở thành một ngàn đồng tiền thí. Lại cũng có người không tiếc thân mệnh dứt bỏ sanh mạng của mình trong đền thờ, sẽ thọ được phước báo cõi trời vô cùng tận.
Phía trước đền thờ có một cội cây rất lớn. Cành lá sum sê bóng mát che phủ kín cho nên đó cũng là chỗ ăn ở nương nhờ của người và quỷ. Hai bên tả hữu có rất nhiều di cốt của những người đã bỏ mạng tại đây. Bởi vì nghe theo tà thuyết và những lời dụ dỗ của thần linh. Chuyện dụ dỗ cho đến nay vẫn còn chưa thay đổi.
Gần đây, có con cháu của những người Bà La Môn, tên là Hoát Đạt Đa, trí tuệ mẫn tiệp, đến ở trong đền thờ nầy mà bảo mọi người rằng:
- Phàm những tục xấu xa xưa kia rất là khó bỏ, nhưng bây giờ trở đi ta muốn nhiếp hóa, để người trên kẻ dưới được lợi lạc.
Ông nói tiếp:
- Ta đã chết rồi. Vì ngày xưa hay nói dối nhưng bây giờ thì nói thật. Chư thiên vui mừng tiếp dẫn ta về hư không. Từ cảnh giới ấy thấy những hình ảnh bên dưới bị tổn hoại sai trái, nên muốn về trở lại để tự thú và đảnh lễ. Người quen của ta đã cản ngăn, nhưng ý chí không thay đổi.
Bèn dùng y phục bao gốc cây lại rồi thì tự mình đảnh lễ sát đất. Hồi lâu tỉnh lại nói rằng:
- Tuy thấy trên không trung có chư thiên triệu thần nhưng đó là một tà thần dẫn nhập nên không nhận được phước lạc của chư thiên.
Đại Thành ở phía đông nằm hai bên con sông giao nhau rộng độ mười dặm đất đai hẹp, cát bồi nhiều .Từ xưa đến nay là nơi xuất thân của Vua chúa. Cho nên từ nơi đây bố thí chưa ngừng nghỉ chu cấp bất kể số lượng và nơi chốn. Hiện tại vua Giới Nhựt đã tu hạnh bố thí rất là quảng đại, đem tài sản tích lũy trong 5 năm chỉ cho một ngày là hết. Ở nơi phát chẩn có nhiều vật giá trị. Phần đầu trong ngày ấy có để một tượng Phật lớn và các báu vật khác rất trang nghiêm và bắt đầu cho những của cải quý giá trước, sau đó đến thường trụ tăng và sau nữa là hiện tiền chúng. Tiếp nữa là những bậc cao đức thạc học hiểu rộng biết nhiều, thứ nữa là ngoại đạo và những luận sư của ngọai đạo, tiếp theo là những người cô độc nghèo khổ, tiếp nữa là những kẻ giá áo túi cơm v.v... tất cả đều nhận được những đồ trân quý cho đến thực phẩm, cứ như thế mà phát chưa bao giờ cùng, nhưng kho của nhà vua thì đã hết. Nhà vua liền lấy hạt minh châu trong búi tóc ra, toàn bằng anh lạc. Sau đó tiếp tục cho mà trong tâm không có gì hối hận cả và tự nói rằng: Lành thay những gì mà ta có hãy cho vào trong tàng kim cang bền chắc. Từ nay về sau, nếu có các Vua của nước khác đem hiến tặng những đồ trân quý thì đừng lấy mà đem cất vào trong kho đó.
Nơi phía đông của chỗ bố thí là cửa ngõ của hai con sông giao nhau. Mỗi ngày có hàng trăm người tự dầm mình chết theo tục lệ ở đó vì cầu sanh vào thiên giới. Ở nơi nầy họ không ăn gì hết mà tự trầm mình tắm rửa trong dòng sông đó để tội dơ được tiêu diệt, mà theo tục lệ của nước kia từ xưa đến nay chưa dừng nghỉ. Họ không ăn trong bảy ngày như thế và sau đó tự giết mình. Cho đến những con thú núi rừng cũng vân tập bên bờ sông hoặc lặn hụp trong đó hoặc nhịn ăn mà chết. Đây là nơi mà vua Giới Nhựt chẩn thí rất nhiều. Có một con khỉ ở bên bờ sông, ngồi dưới gốc cây tuyệt thực qua nhiều ngày như thế đói mà chết. Ở đây những người ngoại đạo tu khổ hạnh thường hay đứng bên bờ sông để chờ mặt trời lên rồi một tay một chân đưa sát nhau và tay khác chân khác giữ nguyên vị trí cũ. Đứng một chân như vậy chẳng nhúc nhích mắt không rời, quán mặt trời qua bên trái cho đến tối mới buông xả, những người như thế nầy nhiều vô cùng. Họ nghĩ rằng siêng năng hành trì khổ hạnh như thế mới xuất ly sanh tử. Hoặc có người thực hành như thế hơn 10 năm không giải đãi. Từ đây qua phía tây nam vào trong khu rừng lớn, có ác thú và voi dữ qua lại rất nhiều. Nếu người đi không đông thì khó mà qua được. Đi hơn 500 dặm, đến nước Kiều Thường Di.
5) Nước Kiều Thường Di chu vi hơn 6000 dặm. Đô thành hơn 30 dặm. Đất đai màu mỡ, lợi tức rất nhiều. Họ cấy lúa và có trồng nhiều mía. Khí hậu nóng. Phong tục tập quán thuần hòa, ưa học nghề nghiệp và thích làm phước thiện. Có hơn 10 ngôi Già Lam, đa phần bị hoang phế. Có hơn 300 Tăng Sĩ tu theo Tiểu Thừa. Đền thờ hơn 50 ngôi. Ngoại Đạo sống tạp nhạp. Trong thành nội thuộc cố cung có một tịnh xá lớn cao hơn 60 thước có khắc tượng Phật bằng trầm, bên trên có một Bảo Cái toàn bằng đá. Vua Ổ Đà Diễn Na đã tạo nên tượng ấy hình dáng rất đẹp đẽ trang nghiêm. Ánh sáng quang minh rực rỡ mà các Vua nước khác đã ỷ lại vào sức lực nên muốn chiếm đoạt. Tuy rằng có nhiều người nhưng chưa ai có thể di chuyển được. Khi thành tâm cúng dường lời nói chân thật sẽ được giữ nguyên tức là tượng nầy vậy. Sau khi Như Lai thành Chánh Giác rồi, Ngài thăng thiên cung để thuyết pháp cho mẹ ba tháng không trở lại, vị Vua nầy nguyện đúc tượng Phật cho nên mới thỉnh Tôn Giả Một Đặc Già La Tử (Mục Kiền Liên) dùng thần thông lực để đón tiếp công nhân từ thượng giới về, quán thân của đức Như Lai để làm tượng bằng gỗ Bạch Đàn. Khi đức Như Lai từ cõi Tự Tại Thiên cung trở về, tượng khắc bằng Bạch Đàn tự nhiên đứng lên nghinh tiếp Thế Tôn và vấn an Thế Tôn rằng:
- "Ngài giáo hóa có mệt không? Ngài khai đạo cho đời sau có khác gì không?
Ở phía đông tịnh xá cách hơn 100 bước, có một nơi ghi lại dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ đã ngồi thiền và kinh hành. Từ đây không xa, có một cái giếng và phòng tắm của Như Lai. Giếng đã hư rồi, còn phòng tắm đã hoại rồi. Trong thành phía đông nam còn dấu tích của một nền nhà là nơi của trưởng giả Cù Sử La (Ghosira) cư ngụ. Trong đó cũng có một tịnh xá và một bảo tháp thờ tóc cũng như móng tay của đức Phật. Lại cũng có nơi ghi lại chỗ tắm của đức Phật.
Phía đông nam của thành không xa, có một ngôi Già Lam cũ. Đây là vườn nhà cũ của ông Cù Sử La, giữa đó có một Bảo Tháp do Vua A Dục xây dựng cao 200 thước. Như Lai đã thuyết pháp nhiều năm ở đây. Tại đây cũng có dấu tích ghi lại nơi kinh hành và ngồi thiền của bốn vị Phật trong quá khứ. Lại cũng có Bảo Tháp thờ tóc và răng của đức Như Lai. Già Lam phía đông nam, có một viện Bảo Tàng. Nơi đó là nơi mà ngài Thế Thân Bồ Tát đã ở, soạn ra Luận Duy Thức để bài bác Tiểu Thừa cũng như để vấn nạn Ngoại Đạo. Phía đông của Già Lam có một vườn xoài. Nơi đây cũng là nơi ghi lại di tích của Ngài Vô Trước soạn ra Hiển Dương Thánh Giáo Luận. Phía tây nam của thành đi tám dặm chín, đến động đá Độc Long, nơi đây đức Phật đã hàng phục con Rồng dữ, bên trong còn lưu ảnh lại, nhưng đó chỉ là truyền thuyết, bây giờ không thấy nữa. Phía bên nầy cũng có một Bảo Tháp do Vua A Dục xây dựng cao hơn 200 thước, bên cạnh là di tích Như Lai đi kinh hành và có Bảo Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Những người nào có bệnh đến đây cầu nguyện đa phần được linh ứng. Khi giáo pháp của đức Như Lai diệt tận nước nầy là nơi sau cùng. Trên từ quân vương, dưới đến thứ dân khi vào biên giới nước nầy tự nhiên cảm thương, chẳng muốn ăn uống khóc lóc ta thán rồi trở về.
Phía đông bắc của hang rồng kia là rừng rậm, cách hơn 700 dặm là sông Hằng. Phía bắc đến thành Ca Xà Bố La, chu vi hơn 10 dặm. Mọi người giàu có, bên cạnh thành có một ngôi Già Lam, nhưng không còn vết tích gì cả. Nơi đây cũng là nơi mà ngày xưa Bồ Tát Hộ Pháp hàng phục Ngoại Đạo. Tiên Vương của nước nầy đã trợ giúp cho tà thuyết muốn hủy báng Phật Pháp sùng kính Ngoại Đạo. Ngoại Đạo đã triệu thỉnh một vị luận sư thông mẫn cao minh đạt lẽ u huyền soạn Ngụy Tà Thư hơn ngàn bài tụng và ba vạn hai ngàn lời, để hủy báng Phật Pháp, xiển dương đạo giáo của họ. Vua cũng có lệnh triệu tập tăng chúng nơi đây để biện luận. Nếu Ngoại Đạo thắng, thì hủy bỏ Pháp của Phật. Nếu chúng tăng không thua, họ tự cắt lưỡi để tạ lỗi. Lúc bấy giờ tăng đồ sợ thua nên mới bàn rằng: Có lẽ mặt trời trí tuệ đã chìm rồi cho nên Pháp Phật bị hủy diệt thế nầy. Nhà Vua sùng kính Ngoại Đạo làm sao chúng ta thắng được. Sự việc đã như vậy thì có kế gì được an ổn chăng? Trong chúng ai cũng làm thinh. Ngài Hộ Pháp Bồ Tát từ thưở nhỏ đã là bậc biện tài vô ngại, đa văn xa gần ai cũng biết, cho nên đại chúng đề nghị và bảo rằng:
- Sao chúng ta không cầu thỉnh Ngài để đối lại sự tuyên bố của Vua. Nếu họ thắng được, họ sẽ cao ngạo, còn mình bị thua thì sẽ bị nhổ răng. Trong chúng tiến thối luỡng nan không ai đáp được cả, cho nên mới cung thỉnh Ngài, tùy theo cách mà đáp ứng lệnh Vua.
Lúc đó, Ngài liền thăng tòa để luận bàn. Ngọai Đạo dương dương tự đắc ngữa mặt lên trời tụng đọc những sở chấp của dị luận. Khi ngài Hộ Pháp Bồ Tát nghe những lời nầy liền cười mà nói rằng:
- Ta được thắng chưa? Ta sẽ đọc ngược lại cho các ngươi nghe và ta tụng ngược tất cả.
Ngoại Đạo tái mặt và nói rằng:
- Chúng con không dám tự cao và xin tận lãnh ý của Ngài và Ngài là người thắng cuộc rồi đấy!
Đúng như ý nghĩa đã giao kết, Ngài Hộ Pháp nghe và thuật lại ý nghĩa của câu văn, chương cú lý luận, chẳng sai và sót một chữ nào. Khi Ngoại Đạo nghe xong liền muốn tự mình cắt lưỡi. Ngài Hộ Pháp nói rằng: Cắt lưỡi chẳng phải là điều để tạ lỗi, mà sửa đổi những điều chấp trước đó mới là điều hối cải, liền sau đó, Ngài thuyết pháp, tâm ý của Ngoại Đạo được tỏ ngộ chân lý. Vua bỏ Tà Đạo, tôn sùng Chánh Đạo.
Bên cạnh nơi hàng phục Ngoại Đạo của Ngài Hộ Pháp, có một Bảo Tháp do Vua A Dục xây. Bây giờ đã nghiêng đổ, cao hơn 200 mét. Đây là nơi Như Lai ngày xưa đã từng thuyết pháp sáu tháng. Bên cạnh đó là di tích nơi kinh hành, cũng như Bảo Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Từ đây đi qua phía bắc hơn 178 dặm đến nước Bi Tác Ca.
6) Nước Bi Tác Ca chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành hơn 16 dặm. Họ cấy lúa và trồng hoa quả rất nhiều. Khí hậu ôn hòa, phong tục thuần chất. Dân chúng thích học hỏi, nhưng chẳng tìm cầu phước đức và không tin luân hồi. Có hơn 20 ngôi Già Lam, và 3000 Tăng Sĩ, tu theo phái Chánh Lượng Bộ thuộc Tiểu Thừa. Có hơn 50 đền thờ và rất nhiều ngoại đạo. Từ thành phía Nam đi qua bên trái, có một ngôi chùa lớn. Ngày xưa nơi đây, Ngài Đề Bà Thiết Ma A La Hán đã tạo Thích Thân Luận tại nơi nầy, nói về Vô Ngã, Nhân và Ngài Cù Ba A La Hán soạn ra Thánh Giáo Yếu Thật Luận nói về Hữu Ngã, Nhân. Do đây mà có sự chấp vướng về Pháp và đã tranh luận dữ dội. Nơi đây cũng là nơi Bồ Tát Hộ Pháp suốt trong bảy ngày đã hàng phục Tiểu Thừa và hàng trăm luận sư. Phía bên Già Lam có một Bảo Tháp cao hơn 200 mét, do Vua A Dục dựng lên, ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp hóa độ suốt 60 năm. Bên cạnh tháp Thuyết Pháp, có một cây rất kỳ lạ, cao đến 67 thước. Hai mùa Xuân Thu không tăng giảm. Ngày xưa Như Lai lấy cành cây để đánh răng. Vì vậy người ta vẫn bảo vệ cây nầy cho đến ngày hôm nay. Những người Tà Kiến và Ngoại Đạo thường đến đây để chặt cây, nhưng tự nhiên nó sanh lại như cũ. Từ phía nầy không xa là nơi ghi lại dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ đã tọa thiền và kinh hành. Lại cũng có Bảo Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Cây cối và Bảo Tháp soi dấu xuống mặt hồ giao nhau rất đẹp. Từ đây đi về phía đông bắc hơn 500 dặm đến nước Thất La Phiệt Thất Để (Xá Vệ -Savarthi)
LeGiang is offline  
Đã có 3 thành viên gửi lời cám ơn đến LeGiang vì bạn đã đăng bài:
bettyqi18 (18-07-2016), JosephDora (26-11-2014), StephenOt (02-01-2015)
Ðề tài đã khoá



Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Website sử dụng phần mềm vBulletin phiên bản 3.6.8
do Công ty TNHH Jelsoft giữ bản quyền từ 2000 - 2024.
Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 04:38 AM.

Hội CHS Lê Quý Đôn-Long An giữ bản quyền nội dung của website này

Tự động[F9]TELEX VNI VIQR VIQR* TắtKiểm chính tảDấu cũ
phan mem quan ly ban hang | thuê vps