Chương 63
Trung uý Collet đứng một mình ở cuối đoạn đường dẫn vào nhà Leigh Teabing và ngước nhìn lên toà nhà đồ sộ. Biệt lập tối om. Địa hình địa vật tốt. Collet nhìn nửa tá trợ thủ của mình lặng lẽ toả ra dọc theo chiều dài của hàng rào. Họ có thể vượt qua hàng rào và bao vây ngôi nhà chỉ trong vài phút. Langdon không thể chọn một nơi lý tưởng hơn cho quân của Collet mở một cuộc đột kích.
Collet toan gọi cho Fache thì chuông điện thoại của anh reo. Tiếng Fache nghe có vẻ không hài lòng với những tiến triển mới như Collet tưởng: "Tại sao không ai nói cho tôi biết chúng ta đã có manh mối về Langdon?".
"Lúc ấy ông đang gọi điện thoại và…".
"Chính xác là anh đang ở đâu, Trung uý Collet?".
Collet cho ông ta địa chỉ: "Đó là điền trang của một người quốc tịch Anh tên là Teabing. Langdon đã lái xe từ xa tới đây, và chiếc xe bây giờ nằm bên trong cánh cổng an toàn, không có dấu hiệu của việc phá cửa đột nhập, cho nên có thể thấy Langdon biết người chủ ngôi nhà".
"Tôi đến ngay đây", Fache nói, "đừng hành động gì cả. Tôi sẽ đích thân xử lý việc này".
Collet há hốc miệng: "Nhưng thưa Đại úy, ông ở cách đây hai mươi phút chạy xe! Mà chúng ta lại nên hành động ngay lập tức. Tôi đã cho người theo dõi hắn. Tôi có tám người tất cả. Bốn trong bọn tôi có súng trường đã chiến và số còn lại có súng ngắn".
"Đợi tôi".
"Thưa Đại úy, chuyện gì sẽ xảy ra nếu Langdon có con tin trong đó? Chuyện gì xảy ra nếu hắn thấy chúng ta và quyết định chạy bộ khỏi đây. Chúng ta cần hành động ngay bây giờ! Người của tôi đã vào vị trí và sẵn sàng hành động".
"Trung uý Collet, anh phải đợi tôi tới trước khi hành động. Đây là mệnh lệnh", Fache cúp máy.
Kinh ngạc, Trung uý Collet ngắt điện thoại. Tại sao Fache lại bắt mình đợi nhỉ? Collet biết câu trả lời. Fache vừa nổi tiếng là có linh tính nhạy, lại vừa khét tiếng sĩ diện. Fache muốn việc bắt giữ này là thành tích của mình. Sau khi đưa chân dung của người Mỹ đó lên truyền hình, Fache muốn chắc chắn khuôn mặt mình cũng xuất hiện với thời lượng tương đương. Công việc của Collet đơn giản chỉ là kiểm soát hiện trường cho đến khi ông chủ thực sự có mặt ở đó để tranh công.
Trong khi đứng ở đó, Collet bật nghĩ ra cách thứ hai khả dĩ giải thích cho sự trì hoãn này. Khống chế thiệt hại. Trong việc thực thi luật pháp, việc chần chừ bắt giữ kẻ bỏ trốn chỉ xảy ra khi không chắc chắn về tội lỗi của kẻ bị tình nghi. Phải chăng Fache đang suy nghĩ lại về khả năng Langdo đúng là người cần bắt. Ý nghĩ này thật đáng sợ. Đêm nay Đại uý Fache đã liều lĩnh dùng nhiều biện pháp nhằm bắt Robert Langdon - surveillance caché (1), Interpol, và bây giờ là truyền hình nữa. Ngay cả Bezu Fache vĩ đại cũng sẽ khó trụ nổi trước ảnh hưởng chính trị khốc hại nếu ông ta đã lầm lẫn trương ảnh một nhân vật Mỹ lỗí lạc lên truyền hình Pháp, khẳng định đó là một kẻ giết người. Nếu giờ đây Fache nhận ra mình đã mắc sai lầm, thì việc ông ta bảo Collet không được hành động là hoàn toàn có lí. Điều Fache cần tránh nhất là để Collet xông vào điền trang riêng của một người Anh vô tội và chĩa súng vào Langdon.
Hơn thế nữa, Collet nhận ra rằng, nếu Langdon vô tội, thì điều này sẽ giải thích cho một trong những nghịch lý lạ lùng nhất của vụ này: Tại sao Sophie Neveu, cháu gái của nạn nhân, lại giúp cho kẻ bị nghi là hung thủ trốn thoát? Trừ phi Sophie biết Langdon bị kết tội oan. Đêm nay Fache đã đưa ra mọi cách giải thích dể giải thích ứng xử kì lạ của Sophie, kể cả việc Sophie, với tư cách là người thừa kế duy nhất của Saunière, đã thuyết phục người tình bí mật của mình - Robert Langdon - giết phăng Saunière vì tiền thừa kế. Có thể Saunière, nếu như ông ngờ ngợ như thế, đã để lại cho cảnh sát lời nhắn Tái bút. Tìm Robert Langdon. Collet dám chắc là một điều gì khác đang diễn ra ở đây. Xem ra Sophie Neveu với cá tính mạnh mẽ có thừa ắt không thể dính líu vào một chuyện bẩn thỉu như vậy.
"Trung uý?" Một trong những cảnh sát đã chiến chạy đến. "Chúng tôi tìm thấy một chiếc xe hơi".
Collet theo viên cảnh sát đi quá đoạn đường vào độ năm mươi mét. Gã này chỉ vào một khoảng rộng bên kia đường. Ở đó đỗ trong đám bụi rậm, gần như ngoài tầm nhìn, là một chiếc Audi đen. Biển số xe thuê. Collet sờ mũi xe. Vẫn còn ấm.
Thậm chí còn nóng.
"Chắc Langdon đã tới đây bằng xe này", Collet nói. "Hãy gọi cho công ty cho thuê xe. Xem nó có phải là chiếc xe bị đánh cắp hay không?".
"Vâng, thưa trung uý".
Một nhân viên khác vẫy Collet quay lại phía hàng rào. "Trung uý, nhìn này".
Anh ta đưa cho Collet một chiếc ống nhòm có thể nhìn được vào ban đêm: "Ở lùm cây gần đỉnh đoạn đường vào".
Collet hướng ống nhòm lên đồi và điều chỉnh độ nét. Những hình khối xanh lục từ từ lọt vào tiêu cự. Anh tìm thấy chỗ của đoạn đường vào và từ từ nhích lên, lia tới lùm cây. Tất cả những gì anh có thể làm là nhìn chằm chằm vào đó. Ở đó, khuất sau những tán lá xanh là một chiếc xe tải bọc thép. Chiếc xe giống hệt chiếc mà Collet đã cho phép rời khỏi tầng hầm Nhà băng ký thác Zurich lúc tối. Anh cầu nguyện cho điều này chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên kì dị, nhưng anh biết là không phải thế.
"Có vẻ như rõ ràng là", người nhân viên nói, "Langdon và Neveu đã thoát khỏi nhà băng bằng chiếc xe tải này".
Collet không thốt lên lời. Anh nghĩ đến người lái chiếc xe tải bọc thép mà anh đã chặn lại ở rào chắn đường. Chiếc đồng hồ Rolex. Sự nôn nóng của người này chỉ mong sớm được đi khỏi. Mình đã không kiểm tra khoang chở hàng.
Hoài nghi, Collet nhận ra rằng ai đó trong nhà băng đã nói dối DCPJ về tung tích của Langdon và Sophie và sau đó giúp họ trốn thoát. Nhưng ai? Và tại sao? Collet phân vân có lẽ đây là lí do tại sao Fache bảo anh chưa được hành động. Có lẽ Fache nhận ra rằng đêm nay có nhiều người dính líu tới việc này, ngoài Langdon và Sophie ra. Và nếu Langdon và Neveu đến bằng chiếc xe tải bọc thép này thì ai lái chiếc Audi?
***
Cách vài trăm dặm về phía nam, một chiếc máy bay Beechcraft Baron 58 thuê riêng đang hướng về phía bắc qua biển Tyrrhenian. Mặc dù bầu trời yên tĩnh, giám mục Aringarrosa vẫn nắm chặt chiếc túi nôn, tin chắc mình có thể ốm bất cứ lúc nào. Cuộc đàm thoại với Paris đã không như ông tưởng.
Một mình trong cabin nhỏ, Aringarosa xoay xoay chiếc nhẫn vàng trên ngón tay và cố tìm cách làm dịu bớt cảm giác sợ hãi và tuyệt vọng choán ngợp. Mọi sự ở Paris đều hỏng bét. Nhắm mắt lại, Aringarosa cầu nguyện rằng Bezu Fache sẽ có cách sửa chữa điều này. Chú thích: (1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: giám sát bí mật.
Chương 64
Teabing ngồi trên đivăng, ôm chiếc hộp gỗ trong lòng, chiêm ngưỡng hoạ tiết Hoa Hồng tinh xảo khảm trên nắp hộp. Đêm nay đã trở thành đêm lạ lùng nhất và kỳ diệu nhất trong đời mình.
"Hãy nhấc cái nắp lên", đứng cạnh Langdon, Sophie cúi xuống ông thì thầm.
Teabing mỉm cười. Đừng giục tôi. Sau hơn một thập kỷ tìm kiếm viên đá đỉnh vòm này. Ông muốn thưởng thức từng phần nghìn giây của khoảnh khắc này. Ông xoa lòng bàn tay lên chiếc nắp gỗ, cảm nhận kết cấu của họa tiết khảm trên đó.
"Hoa Hồng", ông thì thầm. Hoa Hồng là Magdalene, Magdalene là Chén Thánh. Hoa Hồng là chicc la bàn dẫn đường. Teabing cảm thấy mình thật ngốc nghếch. Bao nhiêu năm, ông đã đi tới rất nhiều thánh đường và nhà thờ trên toàn đất Pháp, trả tiền để được vào những nơi đặc biệt, xem xét hàng trăm chiếc cổng vòm bên dưới những cánh cửa sổ hoa hồng, tìm kiếm một viên đá đỉnh vòm đã mã hoá. La clef de voute - viên đá đỉnh vòm bên dưới dấu hiệu Hoa Hồng.
Teabing chậm rãi tháo móc cài và mở nắp.
Cuối cùng khi mắt ông dõi vào vật đựng bên trong, ông biết ngay nó chỉ có thể là viên đá đỉnh vòm. Ông nhìn chằm chằm vào viên đá hình trụ, được gia công với những đĩa chữ thông liên với nhau. Đồ chế tác này có vẻ quen thuộc với ông một cách kì lạ.
"Được thiết kế theo những ghi chép trong nhật kí của Da Vinci", Sophie nói. "Ông tôi đã làm những thứ này như một thú tiêu khiển".
Tất nhiên rồi. Teabing hiểu. Ông đã thấy những phác thảo và thiết kế. Chìa khoá để tìm ra Chén Thánh năm bên trong viên đá này. Teabing nhấc hộp mật mã ra khỏi chiếc hộp ngoài, cầm nó một cách nhẹ nhàng. Mặc dầu không biết làm thế nào để mở hình trụ đá, nhưng ông cảm thấy số mệnh của chính mình nằm trong đó. Trong những khoảng khắc thất bại, Teabing đã từng tự hỏi liệu công sức tìm kiếm của cả đời mình có bao giờ được đền đáp. Giờ đây những nghi ngờ này đã vĩnh viễn tan biến. Ông có thể nghe thấy những tiếng cổ xưa… nền tảng của truyền thuyết Chén Thánh.
Vous ne trouvz pas le Saint - Graal, C'est le Saint - Graal qui vous trouve.
Không phải bạn tìm thấy Chén thánh, chính Chén Thánh tìm ra bạn.
Và tối nay, thật khó tin, chìa khoá để tìm ra Chén Thánh đã đi thẳng vào nhà ông qua cửa trước.
***
Trong lúc Sophie và Teabing ngồi với cái hộp mật mã và trò chuyện về dấm, đĩa chữ và đoán mật khẩu thì Langdon mang chiếc hộp gỗ hồng mộc tới một cái bàn sáng đèn ở đầu kia phòng để xem cho rõ hơn. Một điều Teabing vừa nói lướt qua tâm trí ông.
Chìa khoá để mở Chén Thánh được giấu bên dưới dấu hiệu Hoa Hồng.
Langdon giơ chiếc hộp gỗ lên ánh đèn và xem xét kĩ biểu tượng Hoa Hồng khảm trên nắp. Mặc dầu hiểu biết nghệ thuật của ông không bao gồm chế tác gỗ hoặc đồ khảm, ông vừa nhớ lại cái trần nhà lát gạch men nổi tiếng của tu viện Tây Ban Nha ở ngoại ô Madrid, nơi ba thế kỷ sau khi xây dựng, gạch men trên trần bắt đầu rơi ra để lộ những văn bản thiêng liêng do các tu sĩ ghi nguệch ngoạc trên lớp vữa bên dưới.
Langdon nhìn lại bông Hoa Hồng.
Bên dưới Hoa Hồng-
Sub Rosa.
Bí mật.
Một tiếng va đập ở hành lang đằng sau lưng làm Langdon quay lại. Ông không thấy gì ngoài những vạt bóng tối. Có lẽ người quản gia của Teabing đã đi qua. Langdon quay lại với cái hộp. Ông di ngón tay theo mép nhẵn của hình khảm, phân vân không biết có thể cậy Hoa Hồng ra được không, nhưng kĩ thuật khảm quả là hoàn hảo. Ông ngờ là thậm chí một lưỡi dao cạo mỏng cũng khó lách được vào giữa hoạ tiết Hoa Hồng và chỗ hõm được khoét cẩn thận để khảm lên.
Mờ chiếc hộp ra, ông xem xét bên trong nắp. Nó hoàn toàn trơn nhẵn. Khi ông xoay nó đi một chút, ánh sáng làm xuất hiện một lỗ nhỏ ở mặt dưới của chiếc nắp, ngay chính giữa. Langdon đóng nắp lại và xem lại biểu tượng khảm ở mặt trên. Không có cái lỗ nào cả.
Nó không xuyên qua nắp.
Đặt cái hộp lên trên bàn, ông nhìn quanh phòng và thấy một chồng giấy với một cái kẹp giấy trên đó. Mượn chiếc kẹp, ông quay trở lại chiếc hộp mở ra, và xem kĩ lại cái lỗ. Rất cẩn trọng, ông uốn thẳng chiếc kẹp giấy và luồn một đầu vào trong lỗ.
Ông gẩy nhẹ một cái. Không cần phải cố gắng nhiều lắm. Ông nghe thấy một cái gì đó chạm khẽ xuống mặt bàn. Langdon đóng nắp lại để xem. Đó là một mẩu gỗ nhỏ giống như miếng trong trò chơi chắp hình. Hoa Hồng bằng gỗ tuột khỏi chiếc nắp rơi xuống mặt bàn.
Không một lời, Langdon nhìn chằm chằm vào chỗ trống do bông Hoa Hồng để lại trên nắp. Ở đó, khắc sâu trong gỗ, bởi một bàn tay tinh xảo có bốn dòng chữ viết bằng một thứ ngôn ngữ ông chưa bao giờ thấy.
Những chữ hơi giông chữ Semitic, Langdon tự nhủ, tuy nhiên mình chưa nhậ ra là tiếng gì.
Một chuyển động đột ngột phía sau chợt làm ông chú ý.
Từ đâu chẳng rõ, một cú phang mạnh vào đầu làm Langdon quỵ gối.
Khi ngã, trong một khoảng khắc, ông nghĩ mình nhìn thấy một bóng ma tái nhợt lơ lửng bên trên ông, với một khẩu súng trong tay. Rồi tất cả tối sầm lại.
Chú thích:
(1) Thanh gươm của vua Arthur.
(2) Thành ngữ Anh có nghĩa để lộ rõ tình cảm ra ngoài mặt, ở đây có nghĩa: để lộ tung tích rành rành.
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853
Chương 65
Sophie Neveu mặc dầu làm trong ngành thừa hành luật pháp, cho đến trước tối nay vẫn chưa bao giờ bị ai chĩa súng vào người. Hầu như không thể tường tượng nổi, khẩu súng mà lúc này cô đang dán mắt vào nằm trong bàn tay bợt bạt của một gã hộ pháp bạch tạng với mái tóc dài, trắng trợt. Hắn nhìn cô bằng đôi mắt đỏ ngầu toát ra một vẻ kinh dị và quái đản.
Mặc một chiếc áo thụng len với thắt lưng bằng dây thừng, trông hắn giống như một giáo sĩ thời trung cổ. Sophie không hình dung nổi hắn là ai, tuy nhiên, cô bỗng cảm thấy một sự kính phục mới có đối với sự nghi ngờ của Teabing khi cho rằng Giáo hội đứng sau vụ này.
"Các người biết tôi đến đây là vì cái gì", gã thầy tu nói, giọng ồm ồm.
Sophie và Teabing ngồi trên đi-văng, tay giơ lên theo lệnh của kẻ tấn công. Langdon nằm rên trên sàn. Cặp mắt của gã thầy tu ngay lập tức dừng trên viên đá đỉnh vòm trong lòng Teabing.
Giọng Teabing đầy thách thức: "Ông sẽ không mở được nó đâu,, "Thầy tôi rất thông thái", gã thầy tu đáp, nhích lại gần, khẩu súng lia qua lia lại giữa Teabing và Sophie.
Sophie không biết người phục vụ của Teabing ở đâu. Ông ta không nghe thấy Robert ngã sao?
"Thầy của ông là ai?" Teabing hỏi. "Có lẽ chúng ta có thể đạt được một thoả thuận về tài chính".
"Chén Thánh là vô giá", hắn ta tiến lại gần hơn.
"Ông đang chảy máu kìa", Teabing nhận xét một cách bình tĩnh, hất đầu về phía mắt cá chân bên phải của gã thầy tu, nơi một vệt máu đang chảy xuống từ chân hắn, "và ông đang đi tập tễnh".
"Cũng như ông thôi", gã thầy tu trả lời, chỉ vào những chiếc nạng bằng kim loại bên cạnh Teabing. "Bây giờ, hãy đưa cho tôi viên đá đỉnh vòm".
"Ông cũng biết về viên đá đỉnh vòm?" Teabing hỏi, giọng ngạc nhiên.
"Đừng bận tâm đến cái mà tôi biết. Hãy đứng lên từ từ và đưa nó cho tôi".
"Đứng lên là một việc rất khó khăn đối với tôi".
"Đích thị. Tôi ưng là đửng có ai cố thử di chuyển nhanh".
Teabing luồn tay phải qua một chiếc nạng và nắm viên đá đỉnh vòm trong tay trái. Loạng choạng trên đôi chân của mình, ông đứng thẳng lên, giấu viên đá hình trụ nặng trong lòng tay trái, và tựa tay phải chông chênh lên chiếc nạng.
Gã thầy tu sáp lại cách ông không tới một mét, khẩu súng nhằm thắng vào đầu Teabing. Sophie nhìn, cảm thấy tuyệt vọng khi gã thầy tu với tay ra để lấy viên trụ đá.
"Ông sẽ không thành công", Teabing nói. "Chỉ những người xứng đáng mới có thể mở khoá viên đá đỉnh vòm". Chỉ có Chúa mới phán xét được ai là người xứng đáng, Silas nghĩ.
"Nó nặng đấy", người đàn ông chống nạng nói, cánh tay chao đi, "Nếu ông không cầm lấy nó ngay, tôi sợ là tôi sẽ làm rơi nó mất!" Ông lảo đảo.
Silas bước nhanh tới để lấy hòn đá, và trong khi đó, người chống nạng mất thăng bằng. Chiếc nạng trượt đi bên dưới ông và ông ngã nghiêng về bên phải. Không! Silas lao tới để đỡ lấy viên đá, khẩu súng hạ thấp xuống trong quá trình đó. Nhưng viên đá đỉnh vòm đang lăn ra xa hắn. Khi ngã về bên phải, tay trái Teabing vung về phía sau và hình trụ tuột khỏi lòng bàn tay lăn về phía đi-văng. Cùng lúc ấy, cái nạng bằng kim loại vừa trượt đi bên dưới ông chợt như được tăng tốc, quét một vòng cung rộng trong không khí nhằm vào cẳng Silas.
Cơn đau như xé cơ thể Silas khi chiếc nạng đập trúng chiếc thắt lưng hành xác, ấn những chiếc ngạnh của nó vào da thịt vốn đã trầy xước của hắn. Oằn người lại, Silas khuyu gối làm cho cái thắt lưng thít sâu hơn. Khẩu súng lục cướp cò với một tiếng nổ chói tai vang lên, viên đạn cắm vào ván sàn khi Silas ngã. Trước khi hắn kịp nâng súng lên và bắn tiếp, bàn chân của người phụ nữ đã phi trúng cằm hắn.
***
Ở dưới chân đoạn đường vào, Collet nghe thấy tiếng súng.
Tiếng nổ bặt nhỏ làm anh hoảng hốt. Với việc Fache đang trên đường đến đây, Collet đã từ bỏ hi vọng lập được thành tích cá nhân trong việc tìm ra Langdon tối nay. Nhưng Collet quyết không thể để Fache đưa anh trước Hội đồng Kỷ luật Bộ vì tội sao lãng thủ tục cảnh sát.
Một tiếng súng nổ bên trong một ngôi nhà tư. Và anh thì đứng đợi ở chân đoạn đường vào?
Collet biết cơ hội lặng lẽ tiếp cận đã qua từ lâu. Anh cũng biết nếu mình đứng vô công rồi nghề thêm một giây nữa, thì toàn bộ sự nghiệp của anh sẽ thành chuyện xa xưa ngay sáng mai. Nhìn cánh cổng sắt của điền trang, anh quyết định.
"Hãy buộc dây và kéo đổ cánh cổng".
***
Trong ngóc ngách tâm trí ngất ngư, Robert Langdon nghe thấy tiếng súng nổ. Cả một tiếng thét đau đớn nữa. Của mình ư?
Một cái khoan đang khoan lỗ đằng sau sọ ông. Đâu đó rất gần, có tiếng người đang nói chuyện.
"Anh đã ở nơi quái quỷ nào vậy?" Teabing quát.
Người quản gia hớt hải chạy vào: "Chuyện gì vậy? Ôi lạy Chúa tôi! Hắn là ai? Tôi sẽ gọi cảnh sát ngay đây!".
"Quỷ tha ma bắt anh đi! Đừng gọi cảnh sát. Hãy tỏ ra mình có ích và kiếm cho chúng tôi cái gì đó để trói con quái vật này lại".
"Và một ít đá", Sophie nói với theo.
Langdon lại cảm thấy như đang trôi bồng bềnh. Thêm nhiều âm thanh nữa. Chuyển động. Bây giờ thì ông được đặt trên đi-văng. Sophie chườm túi đá to lên đầu ông. Đầu ông rất đau.
Khi Langdon bắt đầu nhìn rõ, ông thấy mình đang nhìn chằm chằm vào một cơ thể bất động trên sàn. Mình đang có ảo giác sao? Cơ thể to lớn của gã thầy tu bạch tạng nằm sóng xoài và bị một mảnh băng dính bịt miệng. Cằm bị rách và áo chùng đẫm máu ở chỗ đùi phải. Cả hắn hình như cũng đang hồi tỉnh.
Langdon quay về phía Sophie: "Ai vậy? Chuyện gì…đã xảy ra?".
Teabing tập tễnh tiến lại: "Anh đã được cứu bởi một hiệp sĩ vung thanh Escalibur (1) do Khoa chỉnh hình hạng nhất chế tạo".
"Hả?" Langdon cố gắng ngồi dậy.
Bàn tay Sophie run rẩy nhưng âu yếm: "Hãy nghỉ một phút, Robert".
"Tôi e rằng", Teabing nói, "tôi vừa mới chứng minh cho tiểu thư bạn anh thấy cái lợi do thể trạng bất hạnh của tôi. Hình như mọi người đều đánh giá thấp anh".
Từ chỗ ngồi trên đi-văng. Langdon nhìn gã tu sĩ và cố gắng hình dung xem chuyện gì đã xảy ra.
"Hắn mang chiếc cilice", Teabing giải thích.
"Một cái gì?".
Teabing chỉ một đai da đẫm máu có ngạnh trên sàn nhà: "Một chiếc thắt lưng hành xác. Hắn đã đeo nó trên đùi. Tôi đã nhắm cẩn thận trước khi hành động".
Langdon xoa xoa đầu. Ông có biết về loại đai lưng hành xác này: "Nhưng…làm sao ngài lại biết?".
Teabing cười rất tươi: "Thiên Chúa giáo thuộc lĩnh vực nghiên cứu của tôi, Robert, và có những giáo phái mang trái tim mình trên ống tay áo (2). Ông chỉ cái nạng vào chỗ máu thấm qua áo thụng của gã tu sĩ. "Như thế này".
"Opus Dei", Langdon thì thầm, nhớ lại những tin tức gần đây trên các phương tiện truyền thông về vài doanh nhân Boston - thành viên của Opus Dei. Những cộng sự lo sợ đã công khai tố cáo sai lạc là những người này mang những thắt lưng hành xác - cilice - dưới bộ trang phục ba mảnh. Thực ra, ba người đó không làm như vậy. Như nhiều thành viên của Opus Dei, họ đang trong giai đoạn "dư thừa" và không thực hành lệ hành xác. Họ là những tín đồ Thiên Chúa giáo sùng đạo là những người cha chăm lo cho con cái, và những thành viên tận tụy với cộng đồng. Không có gì đáng ngạc nhiên, các phương tiện truyền thông chỉ nêu rõ ngắn gọn sự tận tụy tinh thần của họ trước khi chuyển sang những hoạt động gây sốc của tổ chức này với những thành viên "nội" khắc kỉ hơn…như gã tu sĩ đang nằm trên sàn trước mắt Langaon.
Teabing xem xét chiếc thắt lưng đẫm máu: "Nhưng tại sao Opus Dei lại cố gắng tìm cho ra Chén Thánh?".
Langdon vẫn đang quá choáng váng để có thể xem xét vấn đề này.
"Robert", Sophie nói, đi tới chiếc hộp gỗ, "đây là cái gì?" Cô đang cầm miếng hình Hoa Hồng khảm mà Langdon đã gỡ khỏi nắp hộp.
"Nó che một bản khắc chữ trên chiếc hộp. Tôi nghĩ đoạn văn bản này có thể cho chúng ta biết cách để mở viên đá đỉnh vòm".
Trước khi Sophie và Teabing kịp đáp lời, một loạt ánh đèn xanh nhấp nháy và còi báo động từ xe cảnh sát đã tràn ngập chân đồi và bắt đầu lượn ngoằn ngoèo lên đoạn đường vào dài nửa dặm.
Teabing cau mày: "Các bạn thân mến, xem ra chúng ta phải quyết định rồi. Và chúng ta nên làm điều đó thật nhanh lên". Chú thích: (1) Thanh gươm của vua Arthur. (2) Thành ngữ Anh có nghĩa để lộ rõ tình cảm ra ngoài mặt, ở đây có nghĩa: để lộ tung tích rành rành.
Chương 66
Collet và quân của anh ta xông qua cửa trước trang viên của ngài Leigh Teabing, súng lăm lăm trên tay. Tỏa ra, họ bắt đầu lục soát tất cả các phòng ở tầng một. Họ phát hiện ra một lỗ đạn trên sàn phòng khách, những dấu hiệu của một cuộc vật lộn, một ít máu, một dây da lạ có ngạnh và một cuộn băng dính dùng dở. Toàn bộ tầng này dường như vắng tanh.
Đúng vào khi Collet định chia quân ra để lục soát tầng hầm và các khu đất đằng sau ngôi nhà, anh bỗng nghe thấy tiếng người ở tầng trên.
"Họ ở trên gác".
Lao lên chiếc cầu thang rộng, Collet cùng quân của mình đi từ phòng này sang phòng khác của ngôi nhà lớn, những phòng ngủ và hành lang tối đen khi họ lại gần hơn những tiếng nói.
âm thanh dường như phát ra tử căn phòng ngủ cuối cùng nằm trên một đoạn hành lang cực kỳ dài. Đám cảnh sát lần theo hành lang, bịt tất cả các lối ra.
Khi lại gần căn phòng cuối cùng, Collet thấy cánh cửa mở rộng. Âm thanh đã ngưng đột ngột và được thay thế bằng một tiếng ầm ì kì lạ, như thể tiếng động cơ.
Giơ súng lên, Collet ra hiệu lệnh. Lặng lẽ tiến tới cánh cửa, anh thấy công tắc đèn và bật lên. Lao vào phòng với đám quân ùa theo sau, Collet quát và chĩa súng vào… trống không.
Một phòng ngủ dành cho khách hoàn toàn trống vắng. Sạch như li như lau.
Tiếng ầm ì của động cơ xe hơi phát ra từ cái bảng điện tử màu đen trên tường cạnh giường ngủ. Collet đã nhìn thấy những thứ này ở mấy chỗ khác trong nhà. Một loại hệ thống liên lạc nội bộ. Anh chạy tới. Chiếc bảng có khoảng một tá nút bấm có dán nhãn.
PHÒNG LÀM VIỆC … BẾP… PHÒNG GIẶT… HẦM RƯỢU …
Vậy thì mình nghe thấy tiếng xe hơi ở chỗ quái nào nhỉ?
Nhà để xe. Collet xuống gác trong vòng vài giây, chạy ra phía cửa sau, tóm lấy một nhân viên anh gặp trên đường. Họ băng qua thảm cỏ bên cạnh và thở không ra hơi khi tới trước một nhà để xe xám xịt màu phong sương. Ngay cả trước khi bước vào, Collet vẫn có thể nghe thấy tiếng động cơ xe tắt dần. Anh rút súng, lao vào và bật đèn.
Phía bên phải nhà để xe là một cái xưởng thô sơ, máy xén cỏ dụng cụ tự động, đồ làm vườn. Một bảng thông tin liên lạc nội bộ quen thuộc treo trên bức tường gần đó. Một trong những chiếc nút đã được gạt xuống, đang truyền tín hiệu.
PHÒNG NGỦ DÀNH CHO KHÁCH II
Collet quay ngoắt lại, cơn giận trào lên. Chúng đã dụ ta lên gác bằng hệ thống liên lạc nội bộ. Tìm kiếm phía bên kia nhà để xe, anh thấy một dãy dài chuồng ngựa. Nhưng không có ngựa.
Rõ ràng chủ nhân thích một loại mã lực khác hơn; các chuồng này được biến thành một nơi để xe đầy ấn tượng. Một bộ sưu tập đáng kinh ngạc - một chiếc Ferrari đen, một chiếc Roll-Royce cổ, một chiếc xe thể thao cổ hai chỗ hiệu Aston Martin, một chiếc Porsche 356 cũ.
Chuồng cuối cùng trống không.
Collet chạy tới và nhìn thấy vết dầu trên sàn. Họ không thể thoát khỏi khu vực có hàng rào vây quanh. Đường vào nhà và cổng vẫn được hai chiếc xe tuần tra chắn để ngăn chặn tình hương này xảy ra.
"Sếp?" Người nhân viên chỉ xuôi theo chiều dài dẫy chuồng.
Cửa trượt phía sau nhà để xe mở rộng, nhường chỗ cho một triền dốc tối, lầy lội với những cánh đồng gồ ghề trải dài trong đêm. Collet chạy tới cánh cửa, cố gắng nhìn vào trong bóng tối.
Không thấy ánh đèn pha. Thung lũng đầy rừng này có lẽ nhằng nhịt hàng tá đường mòn săn bắn không ghi trên bản đồ, nhưng Collet tin rằng con mồi của anh không bao giờ vào rừng. "Gọi vài người triển khai phía đó. Chắc chắn họ đang bị kẹt ở nơi nào đó gần đấy. Những chiếc xe sang trọng này không thể vượt địa hình được".
"Ưm, thưa sếp?" Người trợ lý chỉ vào một cái giá mắc gần đó nơi treo những bộ chìa khoá. Nhãn trên chìa khoá mang những cái tên quen thuộc.
DAIMLER… ROLLS-ROYCE… ASTON MARTIN… PORSCHE..
Cái móc cuối cùng hoàn toàn trống.
Khi Collet đọc cái nhãn trên chiếc móc đó, anh hiểu là mình đang gặp rắc rối.
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853
Xe Ranger Rover được coi là viên ngọc trai đen Java, xe bốn bánh, hộp truyền động chuẩn, đèn polypropylen cực mạnh, đèn hậu chùm bán cố định, tay lái bên phải.
Langdon mừng là mình không phải lái xe.
Người phục vụ của Teabing, Rémy, theo lệnh chủ, đang làm một việc đầy ấn tượng là điều khiển chiếc xe băng qua cánh đồng tràn ngập ánh trăng phía sau Château Villette. Không bật đèn pha, ông ta đã lái qua một cái gò trống trải và giờ đang xuống một con dốc dài, ngày càng xa điền trang. Có vẻ như ông ta đang hướng tới một khu rừng in bóng lô xô ở đằng xa.
Langdon ngồi ghế hành khách, ôm viên đá đỉnh vòm, quay lại nhìn Teabing và Sophie ngồi ở ghế sau.
"Đầu anh thế nào rồi, Robert?" Sophie hỏi, giọng lo lắng.
Langdon nén đau gượng cười: "Cám ơn, đỡ rồi". Kỳ thực đang đau muốn chết.
Bên cạnh cô, Teabing đưa mắt qua vai nhìn gã thầy tu bị bịt miệng đang nằm trên khoang hành lý chất đống đằng sau hàng ghế dưới. Teabing đặt khẩu súng của gã tu sĩ trên lòng, trông ông giống như bức ảnh cũ chụp một thợ săn safari người Anh đứng bên con mồi vừa hạ được.
"Rất vui về cuộc đến thăm bất ngờ của anh tối nay, Robert", Teabing nói, cười tươi như thể đây là lần đầu tiên sau nhiều năm ông mới có dịp vui vẻ thế.
"Xin lỗi vì đã lôi ngài dính líu vào cuộc này, Leigh".
"Ồ tôi đã chờ đợi cả đời để được vào cuộc này mà". Teabing phóng mắt qua Langdon, nhìn ra ngoài kính chắn gió, về phía cái bóng của một hàng rào dài. Ông vỗ nhẹ vào vai Rémy từ đằng sau. "Hãy nhớ đừng đạp phanh để đèn hậu bật lên. Nếu cần thì dùng phanh khẩn cấp. Tôi muốn vào sâu trong rừng một chút.
Không lí do gì phải liều lĩnh để họ nhìn thấy chúng ta từ nhà".
Rémy cho xe sáp lại chậm như bò và lái qua một khoảng trống trong hàng rào. Khi chiếc Range Rover lắc lư đi vào một con đường mòn lút cỏ, hầu như ngay lập tức những vòm cây trên đầu che khuất hết ánh trăng.
Mình không nhìn thấy bất cứ cái gì! Langdon nghĩ, căng mắt ráng phân biệt những hình thù đằng trước họ. Trời tối đen như mực. Những cành cây cọ vào sườn trái xe, và Rémy phải chỉnh sang hướng khác. Giữ cho tay lái tương đối thẳng, ông ta nhích dần về phía trước khoảng ba mươi mét.
"Làm tốt đấy, Rémy". Teabing nói. "Có lẽ đủ xa rồi, Robert, anh làm ơn ấn hộ cái nút màu xanh ngay dưới lỗ thông hơi.
Thấy không?".
Langdon sờ thấy cái nút và ấn vào đó.
Một làn ánh sáng vàng dịu tỏa ra trên vạt đường phía trước, làm hiện lên những bụi cây thấp rậm rạp ở cả hai bên con đường mòn. Đèn xuyên xương mù. Langdon nhận ra. Loại đèn này cho ánh sáng vừa đủ để rọi đường và lúc này họ đã tiến sâu vào trong rừng đủ để ánh sáng không làm lộ họ.
"Tốt, Rémy", Teabing phụ hoạ thêm một cách hài lòng, "có ánh sáng rồi. Mạng sống của chúng tôi nằm trong tay anh đấy".
"Chúng ta đi đâu bây giờ?" Sophie hỏi.
"Con đường mòn này đi sâu vào rừng khoảng ba kilômét", Teabing nói. "Nó cắt ngang qua điền trang rồi vòng lên phía Bắc. Miễn là chúng ta không vấp phải thác nước hay bất cứ cái cây đổ nào, chúng ta sẽ ra tới mặt đường cao tốc không sứt mẻ".
Không sứt mẻ. Cái đầu của Langdon thì lại bày tỏ sự không đồng tình. Ông nhìn xuống lòng mình, nơi viên đá đỉnh vòm vẫn nằm an toàn trong chiếc hộp gỗ. Hình khảm Hoa Hồng trên nắp trở lại vị trí của nó, và mặc dầu đầu còn mụ mị, Langdon vẫn háo hức muốn gỡ nó ra để xem xét những chữ khắc bên dưới. Ông mở móc cài và đang bắt đầu nâng nắp lên thì Teabing đặt tay lên vai ông từ đằng sau.
"Hãy kiên nhẫn, Robert", Teabing nói. "Đường gập ghềnh và tối chúa cứu ta nếu ta giải được điều gì đó. Nếu anh không nhận ra thứ ngôn ngữ đó trong ánh sáng thì anh cũng không thể làm tốt hơn trong bóng tối. Ta hãy tập trung vào việc thoát khỏi nơi này nguyên vẹn đã, được chứ? Sẽ đến lúc dành cho cái đó rất sớm thôi".
Langdon biết Teabing nói phải. Cật đầu, ông đặt chiếc hộp vào chỗ cũ.
Gã thầy tu ở phía sau giờ đây đang rên rỉ, vật lộn với những dây trói. Bất thình lình, hắn giẫy đạp điên cuồng.
Teabing xoay người lại và chĩa khẩu súng qua ghế ngồi:
Thưa ngài, tôi không thể hiểu ngài còn phàn nàn cái nỗi gì. Ngài đột nhập vào nhà tôi và để lại một vết bầm gớm ghiếc trên đầu người bạn thân của tôi. Tôi hoàn toàn có quyền bắn ngài ngay lúc này và để ngài rữa xác trong khu rừng kia".
Gã thầy tu im lặng.
"Ngài có chắc là chúng ta nên đem hắn theo cùng không?", Langdon hỏi.
"Chắc quá đi chứ?". Teabing thốt lên. "Anh đang bị truy nã vì tội giết người, Robert. Tên khốn kiếp này là chiếc vé mở cánh cổng tự do cho anh. Cảnh sát rõ ràng là muốn bắt anh lắm nên mới bám theo anh đến tận nhà tôi".
"Lỗi tại tôi", Sophie nói, "Chiếc xe bọc sắt chắc chắn có thiết bị truyền tín hiệu".
"Vấn đề không phải ở đó", Teabing nói. "Tôi không ngạc nhiên là cảnh sát phát hiện ra anh nhưng tôi thật ngạc nhiên thấy tên hội viên tổ chức Opus Dei này tìm ra anh. Bằng vào tất cả những gì anh nói cho tôi nghe, tôi không thể tưởng tượng nổi làm sao tên này bám được theo anh tới nhà tôi trừ phi hắn có tay trong ở Cảnh sát tư pháp hoặc ở Nhà băng ký thác Zurich".
Langdon suy ngẫm về điều này. Xem ra Bezu Fache chắc chắn đang rất muốn tìm được một kẻ làm bung xung cho những vụ giết người tối nay. Và Vernet đã quay lại chống họ khá bất ngờ, mặc dù xét việc Langdon bị kết tội giết bốn người, sự thay lòng đổi dạ của tay giám đốc nhà băng dường như có thể hiểu được.
"Tên thầy tu này không hành động một mình đâu, Robert", Teabing nói, "và cho đến khi anh biết được ai đứng sau toàn bộ chuyện này, thì cả anh và cô Sophie vẫn còn đang ở trong vòng nguy hiểm. Nhưng tin tốt lành, bạn thân mến, là bây giờ anh đang ở thế mạnh. Con quái vật đằng sau tôi nắm giữ những thông tin đó, và bất cứ ai đang giật dây hắn chắc ngay giờ đây cũng phải lo lắng".
Rémy đang tăng tốc, thoải mái hơn trên đường mòn. Xe băng qua những vũng nước, leo lên một cái gò nhỏ, và lại bắt đầu đi xuống.
"Robert, anh vui lòng đưa cho tôi điện thoại chứ?" Teabing chỉ vào chiếc bộ đàm trên bảng đồng hồ. Langdon đưa nó ra sau và Teabing bấm số. Ông đợi một lúc rất lâu trước khi nghe thấy tiếng ai đó trả lời: "Richard? Tôi có làm anh thức giấc không? Ồ, tất nhiên là có rồi. Một câu hỏi ngốc nghếch. Tôi xin lỗi. Tôi gặp một rắc rối nhỏ. Tôi cảm thấy hơi bệnh. Rémy và tôi cần về Anh đột xuất để điều trị. Phải, ngay lập tức, thật vậy. Xin lỗi vì báo quá gấp. Anh có thể cho Elizabeth sẵn sàng trong hai mươi phút được không? Tôi biết, hãy cố gắng hết sức.
Hẹn sớm gặp lại". Ông cúp máy.
"Elizabeth?" Langdon thắc mắc.
"Máy bay của tôi. Tôi đã mua nó với giá ngang món tiền chuộc một Nữ hoàng".
Langdon quay cả người lại nhìn ông.
"Cái gì?" Teabing hỏi. "Hai người không thể mong ở lại Pháp với toàn bộ Cảnh sát tư pháp đuổi theo sau. London sẽ an toàn hơn nhiều".
Sophie cũng quay sang Teabing: "Ngài nghĩ chúng tôi nên rời khỏi đất nước à?".
"Các bạn của tôi ơi, tôi có nhiều thế lực ở thế giới văn minh hơn ở đây, tại Pháp. Thêm nữa, người ta tin rằng Chén Thánh ở Anh. Nếu chúng ta mở được viên đá đỉnh vòm, tôi chắc chắn chúng ta sẽ khám phá ra một bản đồ chỉ ra rằng chúng ta đã đi đúng hướng".
"Ngài liều lĩnh quá", Sophie nói, "bởi vì việc giúp đỡ chúng tôi sẽ làm ngài không kết bạn được với cảnh sát Pháp".
Teabing phẩy tay ra vẻ chán ngấy: "Tôi đã xong chuyện với nước Pháp. Tôi đến đây cốt tìm viên đá đỉnh vòm. Bây giờ công việc ấy đã hoàn thành. Sau này dù có dịp thấy lại Château Villette nữa hay không, tôi cũng bất cần".
Giọng Sophie nghe có vẻ không chắc chắn lắm: "Làm thế nào chúng ta có thể qua được an ninh sân bay?".
Teabing cười tủm tỉm: "Tôi bay từ Le Bourget - một phi trường không xa đây. Các bác sĩ Pháp không làm tôi yên tâm cho nên hai tuần một lần, tôi bay theo hướng bắc để về Anh điều trị. Tôi trả tiền để có một số đặc quyền ở cả hai bên. Một khi chúng ta đã ở trên không, các bạn có thể quyết định xem các bạn có muốn để ai đó ở sứ quán Mỹ đến gặp chúng ta hay không!"'.
Đột nhiên, Langdon không muốn dây dưa gì với sứ quán. Điều duy nhất ông có thể nghĩ đến lúc này là: viên đá đỉnh vòm, những dòng chữ khắc, và những thứ đó có dẫn đến Chén Thánh hay không. Ông tự hỏi không biết Teabing có đúng khi quyết định về Anh hay không. Phải thừa nhận rằng hầu hết những truyền thuyết hiện đại đều cho Chén Thánh ở nơi nào đó tại Vương quốc Anh. Thậm chí, giờ đây người ta còn tin rằng Đảo Avalon huyền thoại có Chén Thánh của vua Arthur không ở đâu khác ngoài Glastonbury, Anh. Dù Chén Thánh ở đâu, Langdon cũng chưa bao giờ tưởng tượng là có ngày ông sẽ thực sự tìm kiếm nó. Tài liệu Sangreal. Chuyện thật về Jesus, ngôi mộ của Mary Madolene. Đột nhiên ông cảm thấy như đêm nay mình đang sống trong một cõi minh phủ… một cái bong bóng mà ở đó thế giới thực không với tới ông được.
"Thưa ngài?" Rémy nói. "Ngài có thực sự nghĩ đến chuyện về Anh hắn không?".
"Rémy, anh khỏi phải lo!"', Teabing đảm bảo. "Chỉ bởi vì tôi quay trở về vương quốc của Nữ hoàng không có nghĩa là tôi định bắt lưỡi tôi phải nếm xúc xích và khoai tây nghiền nhừ trong phần còn lại của cuộc đời mình. Tôi mong anh sẽ nhập bọn với tôi thường xuyên ở đó. Tôi đang định mua một biệt thự tráng lệ ở Devonshire, và chúng ta sẽ cho chuyển tất cả mọi thứ của anh đến ngay lập tức. Một cuộc phiêu lưu! Rémy. Tôi nói, nó là một cuộc phiêu lưu".
Langdon không khỏi mỉm cười. Trong khi Teabing huyên thuyên về kế hoạch đắc thắng trở về Anh Quốc, Langdon cũng cảm thấy lây niềm phấn hứng của ông.
Lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ, Langdon quan sát những cánh rừng đang lướt qua, nhợt nhạt một cách ma quái trong ánh sương mù vàng vọt. Chiếc gương chiếu hậu ngoặt vào trong, bị quệt lệch đi bởi những cành cây, và Langdon nhìn thấy hình ảnh phản chiếu Sophie đang ngồi im lặng ở ghế sau. Ông ngắm cô hồi lâu và bỗng thấy trào lên một cảm giác hài lòng bất ngớ.
Bất chấp những rắc rối của ông tối nay, Langdon biết ơn hoàn cảnh đã run rủi cho ông có người bạn đồng hành tốt như vậy. Sau vài phút, như chợt cảm thấy tỉa nhìn của ông, Sophie cúi về phía trước, đặt tay lên vai ông, xoa nhẹ: "Anh ổn chứ?".
"Vâng", Langdon nói, "Cách nào đó.".
Sophie ngổi trở lại trên ghế của mình, và Langdon nhìn thấy một nụ cười lặng lẽ thoáng qua trên môi cô. Ông chợt nhận ra mình cũng đang mỉm cười.
Bị chẹn vào phía sau của chiếc Range Rover, Silas hầu như không thở được, cánh tay bị bẻ quặt ra sau và cột chặt vào mắt cá chân bằng dây và băng dính. Mỗi cú xóc trên đường đều làm đôi vai bị vặn xoắn của hắn đau điếng. Chí ít những người bắt hắn cũng đã tháo chiếc thắt lưng hành xác ra. Không thể hít vào qua mảnh băng dán trên mồm, hắn chỉ có thể thở qua lỗ mũi mà nó lại đang tắc dần bởi bụi bặm của phần chứa hàng hoá phía sau, nơi hắn bị nhét vào. Hắn bắt đầu ho.
"Tôi nghĩ là hắn ta ngạt thở", người tài xế Pháp nói, giọng quan ngại.
Ông già người Anh đã quật Silas bằng cái nạng bấy giờ mới quay lại, cau mày ngó qua thành ghế, lạnh lùng nhìn hắn. "May cho anh, những người Anh chúng tôi nhận định trình độ văn minh của con người bằng vào lòng thương cảm không phải đối với bạn bè mà là đối với kẻ thù". Nói rồi ông với xuống, gỡ chiếc băng dính trên miệng Silas. Bằng một động tác nhanh, ông giật nó ra.
Silas cảm thấy môi mình như vừa bắt lửa, nhưng luồng không khí đang ùa vào phổi hẩn thì quả là do Chúa gửi đến.
"Anh làm việc cho ai?" ông già người Anh hỏi.
"Tôi làm việc cho Chúa", Silas làu bàu, hàm đau buốt vì bị người phụ nữ đá vào.
"Anh thuộc tổ chức Opus Dei", Teabing nói. Đó không phải là một câu hỏi.
"Ông chẳng biết được tôi là ai đâu".
"Tại sao Opus Dei lại muốn có viên đá đỉnh vòm?".
Silas không có ý định trả lời. Viên đá đỉnh vòm là cầu nối với Chén Thánh, và Chén Thánh là chìa khoá để bảo vệ đức tin.
"Tôi làm công việc của Chúa, Đạo đang lâm nguy".
Lúc này, trong chiếc xe Range Rover, vật lộn với những dây trói, Silas sợ mình đã vĩnh viễn không làm tròn bổn phận đối với Thầy Giáo và Giám mục. Hắn không cớ cách nào liên lạc để báo cho họ biết về diễn biến khủng khiếp này. Những kẻ bắt giữ ta đã có được viên đá đỉnh vòm. Họ sẽ tìm được Chén Thánh trước chúng ta! Trong bóng tối ngột ngạt. Silas cầu nguyện. Hắn để nỗi đau thể xác tiếp lửa cho lời van xin của mình.
Một phép màu, lạy Chúa. Con cần một phép màu. Silas không cách chi biết được từ giờ phút này trở đi, hắn sẽ có một phép màu.
"Robert?" Sophie vẫn đang quan sát Langdon. "Một vẻ gì lạ lùng vừa thoáng hiện trên mặt anh".
Langdon ngoảnh lại nhìn cô, nhận ra hàm mình đang nghiến chặt và tim đang đập dồn. Một ý không thể tin được vừa nảy ra trong đầu ông. Có thật lời giải thích lại có thể đơn giản đến thế không? "Tôi cần dùng điện thoại của cô, Sophie".
"Ngay bây giờ ư?".
"Tôi nghĩ tôi vừa mới phát hiện ra một điều gì đó".
"Cái gì thế?".
"Tôi sẽ nói cho cô nghe trong một phút nữa. Tôi cần điện thoại của cô!".
Sophie có vẻ thận trọng: "Tôi không chắc là Fache có theo dõi các cuộc gọi hay không, nhưng để đề phòng trường hợp ấy, anh chỉ được gọi dưới một phút thôi". Cô đưa điện thoại cho ông.
"Bấm số gọi về Mỹ như thế nào?".
"Anh cần gọi theo phương thức người nhận trả tiền. Dịch vụ của tôi không phủ sóng sang bên kia Đại Tây Dương".
Langdon bấm số không, biết rằng sáu mươi giây tiếp theo có thể trả lời câu hỏi đã làm ông bối rối cả tối nay. Chương 68
Biên tập viên nhà xuất bản New York Jonas Fankman vửa mới trèo lên giường định ngủ thì chuông điện thoại reo. Ai mà gọi muộn thế, nhỉ! Ông càu nhàu, nhấc máy.
Tiếng người trực tổng đài điện thoại hỏi ông: "Ông có vui lòng trả tiền cho cuộc gọi điện thoại của Robert Langdon không?".
Bối rối, Jonas bật đèn: "Ờ… tất nhiên, đồng ý".
Đường dây đã được nối: "Jonas à?".
"Robert? Cậu đánh thức tôi dậy vàbắt tôi trả tiền cho cuộc gọi?".
"Jonas, tha lỗi cho tôi", Langdon nói, "Tôi sẽ nói ngắn gọn. Tôi thực sự cần biết về bản thảo tôi đã đưa cho ông. Ông có…".
"Robert, tôi xin lỗi, tôi biết tôi đã nói sẽ gửi bản biên tập cho cậu tuần này, nhưng tôi bận bù đầu. Thứ hai tuần sau vậy. Tôi hứa đấy".
"Tôi không lo về chuyện đó. Tôi cần biết ông có gửi bản copy lời giới thiệu nào ra ngoài mà không cho tôi biết không?".
Faukman lưỡng lự. Bản thảo mới nhất của Langdon - một khảo sát về lịch sử việc thờ nữ thần - bao gồm vài phần về Mary Magdalene có thể sẽ gây ngạc nhiên lớn. Mặc dầu bản thảo này có tài liệu chứng minh tốt và đã được những người khác đề cập đến nhưng Faukkman không có ý định in những bản đọc trước (1) mà không ít nhất có được sự xác nhận của một số nhà sử học và nghệ thuật học danh tiếng. Jonas đã chọn mười tên tuổi lớn trong giới nghệ thuật trên thế giới và gửi cho họ toàn bộ bản thảo này cùng với một lá thư lịch sự hỏi xem họ có sẵn lòng viết vài lời nhận xét cho bìa sách hay không. Theo kinh nghiệm của Faukman, hầu hết những người này đều chộp lấy cơ hội để thấy tên mình in trên sách.
"Jonas?" Langdon giục. "Ông có gửi bản thảo của tôi ra ngoài, phải không?".
Faukman cau mày, cảm thấy Langdon không vui về điều đó: "Bản thảo vẫn nguyên vẹn, Robert, và tôi chỉ muốn làm cậu ngạc nhiên với một vài lời giới thiệu thật oách thôi!".
Một khoảng khắc im lặng: "Ông có gửi một bản cho ông phụ trách bảo tàng Paris Louvre không?".
"Cậu nghĩ gì vậy? Bản thảo của cậu có mấy lần tham chiếu tới bộ sưu tập Louvre của ông ta, sách của ông ta nằm trong thư mục của cậu, và ông ta có ảnh hướng lớn đối với việc bán sách ở nước ngoài. Gửi cho Saunière là điều quá dễ hiểu?".
Im lặng kéo dài ở đầu dây bên kia: "Ông gửi nó khi nào?".
"Khoảng một tháng trước đây. Tôi cũng nói với ông ta là cậu sắp sang Paris và hai người nên gặp nhau trò chuyện. Ông ta đã gọi hẹn gặp cậu chưa?". Faukman ngừng lại, rụi mắt. "Khoan, chẳng phải là theo kế hoạch, cậu sẽ có mặt ở Paris tuần này sao?".
"Tôi đang ở Paris".
Faukman ngồi thẳng dậy: "Cậu gọi cho tôi từ Paris?".
"Hãy trừ cước cuộc gọi này vào tiền nhuận bút của tôi, Jonas. Ông có nhận được hồi âm gì từ Saunière không? Ông ấy có thích bản thảo đó không?".
"Tôi không biết. Tôi chưa được tin gì tử ông ta".
"Thôi được, đừng có nín thở. Tôi phải đi đây, nhưng cuộc gọi này đã làm sáng tỏ rất nhiều điều. Cám ơn".
"Robert…".
Nhưng Langdon đã cúp máy.
Faukman gác máy, lắc đầu như không thể tin được. Cáibọn tác giả này, ông nghĩ. Kể cả những tay minh mẫn nhất cũng chập cheng.
TrongchiếcRange Rover, Leigh Teabing bật cười ha hả: "Robert, anh nói anh đã viết một bản thảo đi sâu vào một hội kín, và người biên tập đã gửi một bản sao tới chính tổ chức bí mật ấy?".
Langdon gục xuống: "Rõ ràng là thế!".
"Một sự trùng hợp tai ác, anh bạn của tôi!".
Đâu phải là chuyện trùng hợp. Langdon biết thế. Nhờ Jacques Saunière xác nhận một bản thảo viết về thờ cúng nữ thần thì cũng giống như nhờ Tiger Woods (2) đề tựa cho một cuốn sách dạy đánh golf. Hơn nữa, hầu như chắc chắn rằng bất cứ quyển sách nào viết về việc thờ cúng nữ thần đều phải nhắc tới Tu viện Sion.
"Đây là câu hỏi trị giá hàng triệu đôla", Teabing nói, vẫn tủm tỉm cười. "Quan điểm của anh đối với Tu viện Sion thế nào, ủng hộ hay phản đối?".
Langdon có thể nghe thấy rành rõ ý nghĩa thực sự trong câu hỏi của Teabing. Nhiều nhà sử học cũng đã từng đặt câu hỏi tại sao Tu viện Sion vẫn giấu kín tài liệu Sangreal. Một vài người còn cảm thấy thông tin này nên được chia sẻ với thế giới từ lâu rồi. Tôi không chọn quan điểm nào đối với những hành động của Tu viện Sion cả".
"Anh muốn nói là không có lập trường!".
Langdon nhún vai. Teabing rõ ràng đứng về phe muốn công bố các tài liệu này. "Đơn giản là tôi chỉ cung cấp lịch sử của cái hội kín này và miêu tả họ như là một tổ chức hiện đại thờ nữ thần, những người giữ Chén Thánh và bảo vệ các thư tịch cổ".
Sophie nhìn ông: "Anh có nói đến viên đá đỉnh vòm không?".
Langdon nhăn mặt. Ông có nói. Nhiều lần. "Tôi nói về viên đá đỉnh vòm giả định như là một ví dụ về quyết tâm của Tu viện Sion đi đến cùng để bảo vệ thư tịch Sangreal".
Sophie có vẻ ngạc nhiên: "Tôi đoán vì thế mà có đoạn Tái bút. Hãy tìm Robert Langdon".
Langdon cảm thấy thực ra còn có một cái gì khác trong bản thảo của ông kích thích sự quan tâm của Saunière, nhưng đây là một đề tài mà ông sẽ trao đổi riêng với Sophie.
"Vậy là". Sophie nói, "anh đã nói dối đại uý Fache".
"Cái gì?" Langdon hỏi.
"Anh nói với ông ta rằng anh chưa bao giờ trao đổi thư từ với ông tôi".
"Đúng thế. Người biên tập của tôi đã gửi cho ông cô bản thảo".
"Hãy nghĩ về điều này, Robert. Nếu đại uý Fache không tìm thấy phong bì đựng bản thảo do người biên tập gửi, ông ta sẽ phải kết luận rằng chính anh đã gửi nó". Cô ngừng lời. "Hoặc tệ hơn, rằng anh đã tự tay trao nó và nói dối về điều này".
***
Khi chiếc xe Range Rover đến phi trường Le Bourget, Rémy lái xe tới một nhà để máy bay ở cuối đường bay. Khi họ đến gần, một người đàn ông tóc tai bù xù trong bộ đồ kaki nhàu nát vội vàng bước ra, vẫy tay và kéo cánh cửa kim loại kếch sù mở ra, để lộ một chiếc máy bay phản lực trắng bóng bên trong.
Langdon nhìn chằm chằm vào thân máy bay bóng loáng: "Đó là chiếc Elizabeth?".
Người đàn ông trong bộ đồ kaki vội vàng bước về phía họ, nheo mắt trong ánh sáng đèn pha: "Gần xong rồi, thưa ngài".
Anh ta nói bằng giọng Anh. "Tôi xin lỗi vì sự chậm trễ này, nhưng ngài gọi đột xuất quá và…!". Anh ngừng bặt khi thấy nhóm người đang xuống xe. Anh ta nhìn Sophie và Langdon, rồi lại nhìn Teabing.
Teabing nói: "Các bạn của tôi và tôi có công việc khẩn cấp ở London, chúng tôi không có thời gian để lãng phí đâu. Xin chuẩn bị xuất phát ngay lập tức". Vừa nói, Teabing vừa lấy khẩu súng ra khỏi xe đưa cho Langdon.
Người phi công trợn tròn mắt khi nhìn thấy khẩu súng. Anh ta bước về phía Teabìng và thì thầm: "Thưa ngài, xin cúi đầu tạ lỗi nhưng máy bay ngoại giao chỉ được phép chở ngài và người phục vụ của ngài. Iôi không thể nhận những vị khách kia".
"Richard", Teabing nói, mỉm cười nồng hậu, "hai ngàn đồng bảng Anh và khẩu súng đã lên đạn này nói rằng anh có thể chở các vị khách của tôi", ông ra hiệu về phía chiếc Range Rover, "Và cả anh bạn bất hạnh ở phía sau xe kia nữa".
Chú thích:
(1) Các nhà xuất bản ở Mỹ thưởng in thử một số bản đọc trước gọi là advance reading copy hay pre-print copy để kiểm tra lần cuối trước khi in chính thức.
(2) Vô địch thế giớỉ về môn golf trong nhiều năm liền, ngưởi Mỹ.
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853
Hai động cơ Hawker 731 và Fiarrett TFE-731 ầm ầm đưa máy bay cất cánh lên trời với lực đẩy cực mạnh. Bên ngoài cửa sổ sân bay Le Bourget rớt xuống nhanh lạ lùng.
Mình đang chạy trốn khỏi quê hương. Sophie nghĩ bụng, ngả người vào chiếc ghế da. Cho đến trước giờ phút này, cô vẫn tin rằng trò chơi mèo vờn chuột của mình với Fache có thể biện hộ được cách này hay cách khác trước Bộ quốc phòng. Mình đã cố gắng bảo vệ một người vô tội. Mình đã cố gắng hoàn thành ước nguyện lúc lâm chung của ông. Cánh cửa mở ra cơ hội ấy, Sophie biết, vừa đóng lại rồi. Cô đang rời bỏ đất nước mà không có những tài liệu để làm bằng chứng, đi cùng với một người bị truy nã, và chở theo một con tin. Nếu có một "ranh giới của lý trí" thì cô vừa vượt qua nó rồi. Gần như với tốc độ của âm thanh.
Sophie ngồi cùng với Langdon và Teabing gần phía trước cabin - mẫu thiết kế máy bay phản lực ưu tú, theo như chiếc huy chương vàng gắn trên cửa. Những chiếc ghế quay sang trọng họ đang ngồi được cài chốt vào đường ray trên sàn để có thể di chuyển và cố định xung quanh một chiếc bàn gỗ cứng hình chữ nhật. Một phòng họp mini cho hội đồng quản trị. Tuy nhiên, khu vực đàng hoàng này chẳng làm gì mấy để nguỵ trang cái tình trạng ít đàng hoàng hơn ở đằng sau máy bay, nơi mà, trong một khu riêng gần phòng vệ sinh, người phục vụ của Teabing-
Rémy ngồi với khẩu súng trong tay, đang miễn cưỡng thi hành lệnh của Teabing là canh giữ gã thầy tu mình mẩy vấy máu, bị trói gô nằm dưới chân ông ta như một thứ hành lý.
"Trước khi quay trở lại vấn đề viên đá đỉnh vòm", Teabing nói, "tôi phân vân không biết các bạn có cho phép tôi nói một vài lời không". Giọng ông nghe lo lắng, như một ông bố đang sắp sửa giảng những điều cơ bản về tình dục cho lũ con. "Các bạn của tôi, tôi nhận ra mình chỉ là khách trong cuộc hành trình này, và tôi rất lấy làm vinh dự về điều đó. Vâng, với tư cách là một kẻ đã dành cả cuộc đời cho việc tìm kiếm Chén Thánh, tôi cảm thấy mình phải có nhiệm vụ cảnh báo các bạn rằng các bạn đang sắp bước vào một con đuờng mà đã đi là không thể trờ lui, bất kể nguy hiểm nhường nào". Ông quay về phía Sophie. "Thưa cô Neveu, ông cô đã trao cho cô chiếc hộp mật mã này với hy vọng cô sẽ giữ bí mật về Chén Thánh sống mãi".
"Vâng".
"Có thể hiểu được rằng, cô cảm thấy có nghĩa vụ đi theo con đường đó tới bất cứ nơi đâu mà nó dẫn đến".
Sophie gật đầu, mặc dù cô cảm thấy một động cơ thứ hai vẫn cháy bỏng trong cô. Sự thực về gia đình mình. Bất chấp lời cam đoan của Langdon rằng viên đá đỉnh vòm không liên quan gì đến quá khứ của cô, Sophie vẫn cảm thấy có cái gì đó rất cá nhân quyện bên trong bí ẩn này, cứ như thể chiếc hộp mật mã do chính tay ông cô tạo ra đang cố gắng nói với cô và đưa ra cách giải quyết cho sự trống rỗng đã ám ảnh cô suốt những năm qua.
"Ông cô và ba người khác đã chết tối nay", Teabing tiếp tục, "và họ làm như vậy để giữ cho viên đá đỉnh vòm không lọt vào tay Giáo hội. Đêm nay, chút xíu nữa thì Opus Dei đã chiếm được nó. Tôi hi vọng cô hiểu rằng điều này đặt cô vào một vị thế mang trách nhiệm đặc biệt. Cô được trao cho một ngọn đuốc. Một ngọn lửa cháy suốt 2000 năm không được phép để cho tắt. Ngọn đuốc này không thể để rơi vào những bàn tay đen tối", ông tạm dừng, nhìn vào cái hộp bằng gỗ hồng mộc. "Tôi nhận thấy cô không có sự lựa chọn trong vấn đề này, thưa cô Neveu, nhưng, xét những gì có thể mất hay còn trong cuộc này, thì hoặc là cô phải gánh trọn trách nhiệm này… hoặc trao nó cho một người khác".
"Ông tôi đã trao chiếc hộp mật mã cho tôi. Tôi chắc ông nghĩ rằng tôi có thể đảm đương trách nhiệm đó".
Teabing có vẻ phấn chấn nhưng vẫn chưa tin hẳn: "Tốt. Một ý chí mạnh mẽ là cần thiết. Tuy nhiên tôi muốn biết liệu cô có hiểu rằng việc giải mã thành công viên đá đỉnh vòm sẽ kéo theo một thử thách còn lớn hơn nữa không?".
"Như thế nào cơ?".
"Cô bạn thân mến, hãy tưởng tượng là bạn bỗng có trong tay bản đồ tiết lộ vị trí của Chén Thánh. Lúc đó, bạn sẽ sở hữu một sự thật có khả năng thay đổi lịch sử mãi mãi. Bạn sẽ là người gìn giữ một sự thật mà con người đã tìm kiếm suốt bao thế kỷ nay. Bạn sẽ phải đối mặt với trách nhiệm phơi bày sự thật ấy với thế giới. Cá nhân người làm việc đó sẽ được nhiều người tôn sùng và nhiều kẻ khinh miệt. Câu hỏi đặt ra là bạn có nghị lực cần thiết để thực hiện nhiệm vụ này không?".
Sophie ngừng một lát rồi nói: "Tôi không chắc người có phận sự quyết định thế có phải là tôi hay không".
Lông mày Teabing nhướn lên: "Không ư? Nếu không phải là người sở hữu viên đá đỉnh vòm thì còn là ai?".
"Tu viện Sion, những người bao lâu đã bảo vệ thành công bí mật đó".
"Tu viện Sion ư?" Teabing có vẻ hoài nghi. "Nhưng làm thế nào? Đêm nay, cái hội kín đó đã tan tành. Bị chặt đầu, như cô đã dùng chữ rất đắt. Họ đã bị thâm nhập bằng nghe trộm hay qua một tên gián điệp trong hàng ngũ của họ, điều đó chúng ta không hề biết, nhưng thực tế là có kẻ đã nhằm vào họ và tiết lộ nhân thân của bốn thành viên đứng đầu. Tôi không tin bất kì ai từ trong tổ chức này đứng ra lãnh trách nhiệm ấy vào thời điểm này".
"Vậy thì ngài gợi ý thế nào?", Langdon hỏi.
"Robert, anh cũng như tôi đều biết rằng Tu viện Sion không bảo vệ sự thật suốt bao nhiêu năm qua chỉ để cho nó tích đầy bụi cho đến thiên thu. Họ chờ đợi đến đúng thời điểm thích hợp trong lịch sử để chia sẻ bí mật của họ. Thời điểm mà thế giới sẵn sàng đón nhận sự thật".
"Và ngài tin rằng thời điểm đó đã đến?" Langdon hỏi.
"Tuyệt đối là như vậy. Không thể nào hiển nhiên hơn. Tất cả những dấu hiệu lịch sử đều đã đâu vào đó, và nếu Tu viện Sion không định sớm công bố bí mật của họ thì tại sao Giáo hội lại tấn công?".
Sophie cãi: "Gã thầy tu đó chưa nói với chúng ta về mục đích của hắn".
"Mục đích của hắn là mục đích của Giáo hội", Teabing đáp, "Phá huỷ những tài liệu phơi trần cuộc đạỉ lừa bịp. Tối nay, Giáo hội đã vươn tới gần mục đích hơn bao giờ hết của mình, và Tu viện Sion đã đặt sự tin cậy vào cô, thưa cô Neveu. Nhiệm vụ bảo vệ Chén Thánh rõ ràng bao gồm cả việc thực hiện nguyện ước cuối cùng của Tu viện Sion là chia sẻ sự thật với thế giới".
Landon xen vào: "Leigh, yêu cầu Sophie phải quyết định là một gánh nặng đối với một người chỉ cách đây một giờ đồng hồ mới biết về sự tồn tại của tài liệu Sangreal".
Teabing thở dài: "Tôi xin lỗi nếu tôi đang thúc hối cô, cô Neveu. Rõ ràng là xưa nay tôi vẫn tin rằng những tài liệu này nên được công bố, nhưng chung cuộc, việc quyết định vẫn thuộc về cô. Tôi chỉ đơn giản cảm thấy cô cần bắt đầu suy nghĩ về những gì sẽ xảy ra nếu chúng ta thành công trong việc mở viên đá đỉnh vòm".
"Thưa các quý ông", Sophie nói giọng quả quyết, "để dẫn lời của ngài "Bạn không tìm thấy Chén Thánh đâu, chính Chén Thánh tìm thấy bạn". Tôi tin rằng Chén Thánh đã tìm thấy tôi, và khi nào đúng thời đúng lúc, tôi sẽ biết mình phải làm gì".
Cả hai đều có vẻ sửng sốt.
"Vậy thì", cô nói, chỉ vào chiếc hộp, "hãy tiến tới". Chương 70
Đứng trong phòng tranh của Château Villette, trung uý Collet nhìn ngọn lửa đang tàn và cảm thấy rất nản. Đại uý Fache đã đến trước đó ít phút và bây giờ đang ở phòng bên, la hét vào điện thoại, cố gắng điều phối để xác định vị trí chiếc Range Rover mất tích.
Bây giờ có thể ở bất cứ đâu, Collet nghĩ.
Sau khi làm trái mệnh lệnh trực tiếp của Fache và để tuột Langdon lần thứ hai, Collet thấy biết ơn bộ phận giám định đã xác định được vị trí lỗ đạn trên sàn nhà, ít nhất nó có thể chứng minh lời khẳng định của Collet rằng đã nghe thấy tiếng súng nổ. Tuy nhiên, Fache rất tức tối và Collet cảm thấy sẽ có hậu quả khốc hại khi tình hình lắng xuống.
Rủi thay, những manh mối tìm ra được ở đây không rọi được chút ánh sáng nào vào sự việc đã diễn ra hoặc những người dính líu. Chiếc Audi đen đậu bên ngoài được thuê dưới cái tên và số tài khoản giả, và dấu tay trong xe không trùng khớp với bất cứ dấu tay nào trong hồ sơ của Interpol.
Một nhân viên khác hớt hải chạy vào phòng khách, đôi mắt dáo dác: "Đại uý Fache đâu?".
Collet hầu như không buồn ngước lên khỏi những viên than hồng đang âm ỉ cháy: "Ông ấy đang gọi điện".
"Tôi gọi xong rồi", bước vào phòng, Fache gắt. "Có tin gì vậy?".
Người nhân viên thứ hai nói: "Thưa Đại úy, Trung tâm vừa mới nhận được tin của André Vernet ở Nhà băng Ký thác Zurich. Ông ta muốn nói chuyện riêng với Đại uý. Ông ta thay đổi lời khai".
"Ồ thật sao?". Fache nói.
Bấy giờ Collet mới ngước lên.
"Vernet thú nhận rằng Langdon và Neveu đã ở khá lâu trong nhà băng tối nay".
"Chúng ta đã đoán được điều đó", Fache nói, "Nhưng tại sao Vernet lại nói dối?".
"Ông ta nói ông ta chỉ nói chuyện với Đại úy thôi, nhưng ông ta đồng ý hợp tác hết mình".
"Để đổi lấy cái gì?".
"Giữ cho tên nhà băng của ông ta khỏi bị nêu trên báo chí và giúp ông ta lấy lại tài sản bị mất. Nghe có vẻ như Langdon và Neveu đã đánh cắp cái gì đó trong tài khoản của Saunière".
"Cái gì?", Collet bật ra. "Như thế nào?".
Fache chưa hế nao núng, đôi mắt như đóng đinh vào người nhân viên: "Họ đã lấy cắp cái gì?".
"Vernet không nói rõ, nhưng nghe như ông ta sẵn sàng làm bất cứ gì để tìm lại nó".
Collet cố gắng hình dung xem sự việc đã diễn ra như thế nào.
Có lẽ Langdon và Neveu đã dí súng vào một nhân viên nhà băng chăng? Có lẽ họ đã ép Vernet phải mở tài khoản của Saunière và giúp họ trốn thoát trong chiếc xe tải bọc thép. Dù chuyện ấy là có thể, Collet vẫn khó tin rằng Sophie Neveu có thể dính líu vào những điều như thế này.
Từ bếp, một nhân viên khác gọi Fache: "Đại uý? Tôi đang rà soát những số mà ông Teabing đã gọi, và đang nói chuyện với sân bay Le Bourget. Tôi có vài tin xấu đây".
***
Ba mươi giây sau, Fache đã gói ghém và chuẩn bị rời khỏi Château Villette. Ông ta vừa mới biết rằng Teabing đã giữ một chiếc máy bay phản lực riêng ở sân bay gần Le Bourget và chiếc máy bay đó vừa cất cánh cách đây nửa giờ.
Người đại diện Bourget trả lời điện thoại nói là không biết có những ai trên máy bay và nó bay đi đâu. Máy bay cất cánh ngoài chương trình và không có kế hoạch bay nào được ghi vào sổ nhật ký. Rất bất hợp pháp, ngay cả đối với một sân bay nhỏ.
Fache chắc chắn rằng bằng cách gây sức ép đúng cách, ông ta có thể có câu trả lời cho điều ông ta đang tìm kiếm.
"Trung uý Collet", Fache quát, tiến về phía cửa. "Tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc trao anh cho hội đồng kỉ luật quân đội điều tra. Hãy cố gắng làm một cái gì đúng cho nó khác đi".
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853
Chương 71
Khi chiếc Hawker bay ở tầm trung, nhằm hướng nước Anh, Langdon thận trọng nhấc chiếc hộp bằng gỗ hồng mộc lên từ trong lòng - nơi ông bảo vệ nó trong suốt thời gian cất cánh của máy bay. Trong khi đặt nó lên bàn, ông cảm thấy Sophie và Teabing cũng cúi về phía trước, đón đợi.
Tháo chốt nắp và mở hộp, Langdon không hướng sự chú ý tới những cái đĩa có kí tự mà tới cái lỗ nhỏ xíu ở mặt dưới nắp hộp. Dùng đầu nhọn của một cái bút, ông thận trọng nạy hình khảm Hoa Hồng để lộ ra đoạn văn tự bên dưới. Sub Rosa-Dưới Hoa hồng, ông trầm ngâm suy nghĩ, hi vọng việc xem lại lần nữa có thể làm sáng tỏ văn bản trên. Tập trung hết năng lực, Langdon tìm hiểu dòng kí tự lạ lẫm.
Sau vài giây xem xét, ông bắt đầu cảm thấy nỗi thất vọng như lần đầu: "Leigh, tôi chịu không thể đoán ra".
Từ chỗ Sophie ngồi mé bên kia bàn, cô không thể trông thấy đoạn văn tự, nhưng việc Langdon không thể nhận ra ngay ngôn ngữ đó làm cô ngạc nhiên. Ông mình lại biết một ngôn ngữ bí hiểm đến mức một nhà kí tượng học cũng không nhận ra được ư? Cô nhanh chóng nhận ra mình không nên coi đó là lạ. Đây đâu phải là bí mật đầu tiên mà Jacques Saunière giấu cháu gái.
Ngược lại với Sophie, Leigh Teabing cảm thấy mình sắp nổ tung. Hăm hở vì cơ hội được thấy những kí tự lạ, ông run lên vì phấn khích, cúi người, cố nhìn quanh Langdon đang khom mình trên chiếc hộp.
"Tôi không biết", Langdon thì thầm náo nức, "dự đoán đầu tiên của tôi là kiểu kí tự Semitic nhưng bây giờ tôi không chắc lắm. Phần lớn kí tự Semitic nguyên thủy đều có neckkudot. Nhưng văn tự này lại không có.
"Chắc là rất cổ", Teabing gợi ý.
"Neckkudot?". Sophie hỏi.
Teabing không hề rời mắt khỏi chiếc hộp: "Đa số bảng chữ cái Semitic hiện đại không có nguyên âm, mà dùng nekkudot - những chấm nhỏ và gạch ngang được viết bên dưới hoặc ở giữa các phụ âm - để chỉ rõ âm của nguyên âm nào đi kèm với chúng. Nói theo quan điểm lịch sử, neckkudot là một bổ sung tương đối hiện đại cho ngôn ngữ".
Langdon vẫn cắm cúi trên bản khắc: "Có lẽ một bản phiên tự chữ Sephardic chăng…?".
Teabing không thể đợi lâu hơn được nữa: "Có lẽ nếu tôi…".Với qua bàn, ông thận trọng đỡ lấy cái hộp và kéo nó về phía mình. Không nghi ngờ về việc Langdon hiểu biết sâu sắc các ngôn ngữ cổ chuẩn mực - Hy Lạp, Latinh, Roman - nhưng mới nhìn thoáng qua thứ ngôn ngữ này, Teabing nghĩ nó có vẻ chuyên môn hơn, có thể là chữ thảo Rashi hoặc STA"M với hình mũ miện.
Hít một hơi thật sâu, Teabing thích thú ngắm nhìn hình khắc. Ông không nói gì hồi lâu. Mỗi giây qua đi, Teabing lại cảm thấy sự tự tin của mình càng xẹp xuống. "Tôi rất kinh ngạc", ông nói, "ngôn ngữ này không giống bất cứ thứ gì tôi từng thấy".
Langdon ngồi phịch xuống.
"Tôi có thể xem được không?" Sophie hỏi.
Teabing giả vờ như không nghe thấy: "Robert, lúc nãy anh nói rằng anh đã từng thấy một cái gì giống như thế?".
Langdon có vẻ bực bội: "Tôi đã nghĩ vậy, tôi không chắc lắm. Cách nào đó, thứ chữ này trông quen quen".
"Leigh?" Sophie nhắc lại, rõ ràng không muốn bị gạt ra ngoài cuộc thảo luận. "Tôi có thể xem qua cái hộp do ông tôi làm không?".
"Ồ, tất nhiên, cô bạn thân mến", Teabing nói, đẩy cái hộp về phía cô. Ông không có ý định tỏ ra coi thường cô, tuy nhiên, Sophie Neveu đã đi quá xa khỏi địa hạt của mình. Nếu một nhà sử học Hoàng gia Anh và một nhà kí tượng học Harvard mà còn không thể nhận dạng được ngôn ngữ này thì…
"Aha!".Sophie kêu lên, mấy giây sau khi xem kĩ chiếc hộp, "lẽ ra tôi phải đoán ra ngay chứ!".
Teabing và Langdon cùng quay phắt lại, nhìn cô chằm chằm.
"Đoán ra cái gì?", Teabing hỏi.
Sophie nhún vai: "Đoán ra rằng đây ắt là ngôn ngữ mà ông tôi sử dụng".
"Cô nói là cô có thể đọc được văn bản này?", Teabing thốt lên.
"Dễ ợt", Sophie nói lanh lảnh, rõ ràng là rất thích thú với bản thân. "Ông đã dạy tôi ngôn ngữ này từ khi tôi mới sáu tuổi. Tôi thành thạo nó". Cô cúi người qua mặt bàn và xoáy vào Teabing một cái nhìn trách cứ. "Thẳng thắn mà nói, thưa ngài, xét vì lòng trung thành của ngài với Nữ hoàng, tôi hơi ngạc nhiên thấy ngài không nhận ra nó!".
Loáng một cái, Langdon hiểu ra. Thảo nào cái thứ chữ này trông quen thế!
Mấy năm trước, Langdon có dự một sự kiện ở bảo tàng Fogg của Harvard. Bill Gates (1), người đã bỏ học nửa chừng ở Harvard, trở lại trường cũ để cho bảo tàng mượn một trong những bảo vật vô giá của ông - mười tám tờ giấy mà ông đã mua được trong buổi bán đấu giá ở Điền trang Armand Hammer.
Ông đã giành được khi lạnh lùng đưa ra cái giá 30.8 triệu $.
Tác giả của những trang giấy đó là Leonardo Da Vinci.
Tổng số mười tám trang - giờ đây được gọi là Cuốn sách chép tay Leiccster của Leonardo, đặt theo tên cựu chủ nhân nổi tiếng của chúng - bá tước Leicester - là tất cả những gì còn lại của một trong những sổ ghi chép hấp dẫn nhất của Leonardo: những tiểu luận cùng kí họa cho thấy khái quát những lý thuyết tiến bộ của Da Vinci về thiên văn học, địa chất học, khảo cổ học và thủy động học.
Langdon không bao giờ quên phản ứng của mình sau khi xếp hàng đợi và cuối cùng được nhìn thấy những tờ giấy da vô giá đó. Hoàn toàn thất vọng. Những trang này không thể hiểu được. Mặc dầu được bảo quản tuyệt vời và viết rõ từng nét đến độ hoàn hảo - mực đỏ thẫm trên giấy màu kem - cuốn sách chép tay này trông giống như trò vẽ lăng nhăng. Thoạt đầu, Langdon tưởng có thể đọc được bởi vì Da Vinci thường ghi sổ bằng tiếng Ý cổ. Nhưng sau khi xem xét kĩ hơn, ông nhận ra mình không thể xác định được lấy một từ Ý nào, hoặc thậm chí một chữ cái.
"Hãy thử cách này xem, thưa ngài", nữ hướng dẫn viên ở chỗ tủ trưng bày thầm thì. Cô chỉ một cái gương cầm tay được để trước vật trưng bày trên ghế. Langdon cầm lấy để xem văn bản qua hình ảnh phán chiếu trong đó.
Lập tức, tất cả trở nên rõ ràng.
Langdon đã quá hăm hở nghiên cứu một số ý tưởng của nhà tư tưởng vĩ đại đến nỗi quên mất một trong nhiều tài của Leonardo là khả năng viết kiểu chữ phản chiếu trong gương, rất khó đọc với bất cứ ai ngoài chính ông. Các nhà sử học vẫn còn tranh luận xem Da Vinci đã viết theo cách này đơn giản là để giải trí hay để giữ cho mọi người khỏi nhòm ngó qua vai ông và đánh cắp ý tưởng của ông, nhưng vấn đề vẫn chưa ngã ngũ. Da Vinci đã làm như ông thích.
Sophie cười thầm khi thấy Robert hiểu ý cô: "Tôi có thể đọc vài từ đầu tiên, cô nói. "Đó là tiếng Anh".
Teabing vẫn còn lắp bắp: "Cái gì đang diễn ra vậy?".
Chữ viết ngược", Langdon nói, "chúng ta cần một cái gương".
"Không, không cần đâu". Sophie nói. "Tôi cá là cái vỏ này đủ mỏng". Cô nâng cái hộp bằng gỗ hồng mộc lên ánh sáng đèn trên tường và bắt đầu xem xét mặt dưới nắp. Ông cô không thể viết ngược được, cho nên bao giờ ông cũng dùng mẹo bằng cách viết một cách bình thường và sau đó lật tờ giấy để tô lại.
Suy đoán của Sophie là ông đã dùng phương pháp khắc lửa để viết chữ bình thường lên một lát gỗ và sau đó dùng máy mài mài mặt sau của lát gỗ cho đến khi nó mỏng như tờ giấy và những chữ khắc lửa có thể thấy được xuyên qua gỗ. Sau đó đơn giản là ông lật xấp lát gỗ và đặt nó vào chỗ.
Khi Sophie đưa cái nắp lại gần ngọn đèn, cô thấy mình đã đúng. Tia sáng rọi qua lớp gỗ mỏng và những dòng chữ xuất hiện đảo ngược ở mặt dưới chiếc nắp.
Lập tức trở nên đọc được.
"Tiếng Anh", Teabing rền rĩ, đầu rũ xuống vì xấu hổ, "tiếng mẹ đẻ của mình". ***
Ở đằng sau máy bay, Rémy Legaludec cố sức để nghe qua tiếng động cơ đang rung ầm ầm, nhưng vẫn không thể nghe thấy được đoạn đối thoại phía trước. Rémy không thích cách tiến triển của sự việc. Không một chút nào. Ông ta nhìn gã tu sĩ nằm dưới chân. Người đàn ông này vẫn nằm yên hoàn toàn như thể đành chấp nhận, hay có lẽ, đang lặng lẽ cầu nguyện để được giải thoát. Chú thích: (1) Tỷ phú Mỹ nổi tiếng thế giới.
Chương 72
Ở độ cao năm nghìn mét trên bầu trời, Robert Langdon cảm thấy thế giới vật chất như mờ dần khi tất cả suy nghĩ của Ông đều tập trung vào bài thơ chiếu-gương của Saunière, hiện sáng qua nắp hộp.
Sophie nhanh chóng tìm thấy một tờ giấy và chép lại bằng chữ viết thường. Khi cô chép xong, ba người lần lượt đọc đoạn văn: Nó giống như một thứ ô chữ khảo cổ…Một câu đố hứa hẹn tiết lộ cách mở hộp mật mã. Langdon chậm rãi đọc đoạn thơ.
Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này… Và giúp ta giữ vẹn toàn dòng họ của nàng. Một tấm bia Templar ca ngợi là chìa khóa… Và Atbash sẽ tiết lộ sự thật cho người.
Trước khi Langdon kịp ngẫm nghĩ xem mật khẩu cổ xưa mà đoạn thơ cố gắng tiết lộ là gì, ông đã cảm thấy một cái gì đó còn cơ bản hơn vang vọng trong lòng mình - thể thơ ngũ bộ mười âm theo nhịp iabic(1).
Langdon đã thường xuyên gặp thể thơ này qua những năm tháng nghiên cứu về các hội kín ở khắp Châu Âu, kể cả năm ngoái, khi tiếp cận kho Lưu trữ tư liệu bí mật của Vatican. Suốt hàng thế kỷ nay, thể thơ ngũ bộ mười âm tiết theo nhịp iambic đã trở thành thể thơ ưa thích của các văn nhân bộc trực ở khắp hành tinh, từ nhà văn thời cổ Hy Lạp Archilochus tới Shakespeare, Milton, Chaucer và Voltaire - những tâm hồn quả cảm, những người chọn viết những bình luận xã hội của mình bằng một thể thơ mà nhiều người cùng thời tin là có những thuộc tính huyền bí.Thể thơ ngũ bộ theo nhịp iambic có nguồn gốc thế tục sâu xa.
Thể thơ ngũ bộ theo nhịp iambic. Hai âm tiết với sự nhấn âm ngược nhau. Nhấn và không nhấn. Dương và âm. Một cặp cân bằng được sắp xếp thành những dãy năm. Số năm cho hình sao năm cánh của Venus và tính nữ thiêng liêng.
"Đó là thể thơ ngũ bộ?". Teabing thốt lên, quay sang Langdon. "Và thơ bằng tiếng Anh! La lingua purat"(2).
Langdon gật đầu. Tu viện Sion, giống như nhiều hội kín khác ở châu Âu chống đối Giáo hội, đã xem tiếng Anh là ngôn ngữ châu Âu tinh khiết duy nhất trong nhiều thế kỷ. Không giống như tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý có nguồn gốc Latinh - tiếng mẹ đẻ của Giáo hội - tiếng Anh bị loại bỏ khỏi bộ máy tuyên truyền của Roma, và do đó đã trở nên một thứ tiếng bí mật, thiêng liêng đối với các hội kín có đủ học vấn để học nó.
"Bài thơ này", Teabing bật ra, "đề cập tới không chỉ Chén Thánh mà cả các Hiệp sĩ Templar và gia đình bị ly tán của Mary Magdelene? Chúng ta còn có thể đòi hỏi gì hơn?".
"Mật khẩu", Sophie nói, nhìn lại bài thơ, "nghe có vẻ như chúng ta cần một loại từ cổ thông thái nào đó".
Một từ gồm có năm chữ cái, Langdon nghĩ, cân nhắc số lượng khổng lồ những từ cổ có thể được coi là từ thông thái - chọn lọc từ các tụng ca huyền bí, những lời tiên tri chiêm tinh, những lời sấm của các hội kín, những câu thần chú Wicca, những câu thần chú ma thuật của người Ai Cập, những câu thần chú của người ngoại đạo - danh sách đó là vô tận.
"Mật khẩu này", Sophie nói, "hình như có liên quan gì đó đến các Hiệp sĩ Templar". Cô đọc to lại câu: "Một tấm bia Templar ca ngợi là chìa khóa".
"Leigh". Langdon nói, "ngài là chuyên gia về các Hiệp sĩ Templar. Ngài có ý tưởng gì không?".
Teabing im lặng vài giây rồi thở dài: "Phải, một tấm bia hiển nhiên là vật để đánh dấu mộ. Có thể bài thơ đề cập đến một phiến đá mà các Hiệp sĩ Templar ca ngợi ở ngôi mộ của Magdalene, nhưng điều này cũng chẳng giúp gì nhiều cho chúng ta bởi vì chúng ta chẳng biết mộ của bà ấy ở đâu".
"Câu cuối", Sophie nói, "nói rằng Atbash sẽ hé mở sự thật. Tôi đã nghe thấy từ này. Atbash".
"Tôi chẳng ngạc nhiên", Langdon đáp, "chắc cô đã nghe thấy nó trong cuốn Những ẩn ý khó hiểu 101. Mật mã Atbash là một trong những mật mã cổ xưa nhất mà con người đã từng biết đến".
Tất nhiên rồi! Sophie nghĩ. Hệ thông mã hóa Hebre nổi tiếng.
Mật mã Atbash thực ra là một phần trong khóa huấn luyện mật mã của Sophie. Mật mã này ra đời từ năm 500 trước Công nguyên và đến bây giờ vẫn được dùng như một ví dụ tại lớp về cách cơ bản thay thế luân phiên.Là một dạng thức phổ biến trong tài liệu được mã hoá của người Do Thái, mật mã Atbash là một loại mật mã thay thế đơn giản dựa trên bảng chữ cái Hebrew gồm hai mươi hai kí tự chữ cái. Trong mật mã Atbash, chữ cái đầu tiên được thay thế bằng chữ cái cuối cùng, chữ cái thứ hai được thay thế bằng chữ cái kế tiếp chữ cái cuối cùng và cứ như vậy.
"Mật mã Atbash thật là thích hợp", Teabing nói, "văn bản được mã hóa với hệ thống mật mã Atbash được tìm thấy ở cuộn giấy Kabbala, vùng biển Chết, và thậm chí cả kinh Cựu ước.
Các học giả Do Thái về chúc thư cổ và những nhà mặc khải thần linh vẫn đang tìm kiếm ý nghĩa ẩn giấu trong việc sử dụng mật mã này. Tu viện Sion chắc chắn sẽ coi mật mã Atbash như một phần trong những giáo huấn của họ".
"Vấn đề duy nhất", Langdon nói, "là chúng ta không có bất cứ cái gì để áp dụng mật mã này".
Teabing thở dài: "Chắc chắn phải có một từ mật mã trên tấm bia. Chúng ta phải tìm ra tấm bia được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi".
Qua vẻ nghiêm nghị trên mặt Langdon, Sophie cảm thấy việc tìm tấm bia của các Hiệp sĩ Templar sẽ không phải là một thành tích nhỏ.
Atbash là chìa khóa, Sophie nghĩ. Những chúng ta không có cánh cửa.
Sau ba phút, Teabing thốt ra một tiếng thở dài thất vọng và lắc đầu: "Các bạn của tôi, tôi hoàn toàn bế tắc. Hãy để tôi suy nghĩ thêm về điều này trong lúc tôi kiếm vài thứ ăn vặt và kiểm tra Rémy cùng vị khách của chúng ta". Ông đứng dậy tiến về đằng sau máy bay.
Sophie cảm thấy mệt mỏi khi cô nhìn ông đi.
Bên ngoài cửa sổ máy bay, bóng tối trước bình minh vẫn ngự trị. Sophie cảm thấy như mình lạc trong không gian và không biết sẽ hạ cánh xuống đâu. Vốn từ bé đến lớn đã quen giải những câu đố của ông mình, cô cảm thấy khó chịu khi mà ngay lúc này đây, bài thơ chứa đựng thông tin nằm trước mắt họ mà họ không nhìn ra.
Ở đây còn có cái gì nữa cơ, cô tự nhủ. Tàng ẩn rất tài tình … nhưng dù sao vẫn hiện diện.
Tâm tư cô còn bị một nỗi sợ hãi khác quấy rối: cái mà chung cuộc họ tìm thấy bên trong hộp mật mã có thể không chỉ đơn giản là "bản đồ dẫn tới Chén Thánh". Mặc dầu Teabing và Langdon tin rằng sự thật nằm ngay trong viên đá cẩm thạch hình trụ, nhưng Sophie đã chơi trò săn tìm báu vật của ông mình quá đủ để hiểu rằng Jacques Saunière không bao giờ dễ dàng từ bỏ bí mật của mình.
Chú thích:
(1) Nhịp iambic: tiết tấu hai âm tiết theo kết cấu một âm dài đi theo một âm ngắn hoặc một mạnh đi theo một yếu. (2) Ngôn ngữ tinh khiết.
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853
Chương 73
Nhân viên kiểm soát không lưu ca đêm của sân bay Bourget đang gà gật trước màn hình radar trống trơn thì viên đại úy Cảnh sát tư pháp đập cửa phòng.
"Chiếc phản lực của Teabing", Bezu Face quát om sòm, xăm xăm bước vào đài quan sát nhỏ, "nó đi đâu?".
Phản ứng ban đầu của người kiểm soát viên là một cố gắng yếu ớt, ấp a ấp úng nhằm bảo vệ sự riêng tư của vị khách hàng người Anh - một trong những khách hàng đắt giá nhất của sân bay. Cố gắng này đã thất bại thảm hại.
"Được thôi", Fache nói. "Tôi sẽ bắt giữ anh vì đã cho phép một chiếc máy bay tư cất cánh mà không đăng ký lịch trình bay". Fache ra hiệu cho một sĩ quan khác, người này tiến lại với chiếc còng tay và kiểm soát viên không lưu cảm thấy trào lên một nỗi sợ hãi. Anh ta nghĩ đến một bài báo bàn về chủ đề: đại úy cảnh sát quốc gia là một người anh hùng hay một mối đe doạ? Câu hỏi đó vừa được giải đáp.
"Khoan!". Người kiểm soát viên nghe thấy giọng mình thảng thốt khi nhìn thấy chiếc còng. "Tôi có thể nói với ông điều này.
Ông Leigh Teabing thường bay tới London để trị bệnh. Ông ta có một nhà chứa máy bay ở sân bay Biggin Hill Executive ở Kent. Nó ở ngoại ô London".
Fache vẫy tay ta hiệu cho người cầm chiếc còng lui ra: "Biggin Hill là đích đến của ông ta đêm nay?".
"Tôi không biết", người kiểm soát viên thật thà nói, "máy bay đã xuất phát theo hướng mọi khi, và liên lạc radar lần cuối cùng cũng chỉ tới Vương quốc Anh. Biggin Hill là một phỏng đoán cực kỳ hợp lí".
"Có những người khác cùng lên máy bay không?".
"Tôi thề là tôi không có cách nào để biết điều đó. Những khách hàng của chúng tôi có thể đi thẳng tới nhà chứa máy bay của họ và chất hàng tùy ý họ. Ai cùng lên máy bay là trách nhiệm của nhân viên hải quan ở phòng lễ tân sân bay".
Fache xem đồng hồ và nhìn ra những máy bay đậu rải rác trước nhà ga: "Nếu đi tới Biggin Hill thì bao lâu sẽ hạ cánh?".
Nhân viên kiểm soát lật lật sổ ghi: "Đó là một chuyến bay ngắn. Máy bay của ông ta có thể hạ cánh vào… khoảng sáu giờ ba mươi. Mười lăm phút nữa tính từ bây giờ".
Fache cau mày và quay về phía một trong những cộng sự của mình: "Hãy sắp xếp chuyến bay cho tôi. Tôi sẽ bay tới London. Và liên lạc với cảnh sát địa phương ở Kent cho tôi. Đửng liên lạc với MI5 của Anh. Tôi muốn chuyện này kín đáo. Cảnh sát địa phương Kent thôi. Nói với họ là tôi muốn chuyến bay của Teabing được phép hạ cánh. Sau đó tôi muốn nó bị bao vây trên đường băng. Không ai được rời khỏi máy bay cho đến khi tôi tới". Chương 74
"Cô lặng lẽ quá!". Langdon nói, nhìn Sophie ngồi đối diện với mình trong cabin của chiếc Hawker.
"Tôi chỉ mệt thôi", cô trả lời. "Vì bài thơ nữa. Tôi không biết".
Langdon cũng cảm thấy giống như vậy. Tiếng động cơ ro ro và nhịp đu đưa nhè nhẹ như ru ngủ, và đầu ông vẫn giần giật ở chỗ bị gã thầy tu đánh. Teabing vẫn còn ở đằng sau máy bay, Langdon quyết định tận dụng cơ hội có một mình với Sophie để nói với cô về một điều đã và đang làm ông suy nghĩ: "Tôi nghĩ mình biết một phần lý do khiến ông cô sắp đặt cho chúng ta đến với nhau nhau. Tôi nghĩ có điều gì đó ông muốn tôi giải thích cho cô". "Lịch sử về Chén Thánh và Mary Magdalene vẫn chưa đủ sao?".
Langdon cảm thấy phân vân không biết tiếp tục thế nào: "Sự rạn nứt giữa hai ông cháu. Đó là lý do khiến cô đã không nói chuyện với ông trong suốt mười năm qua. Tôi nghĩ có lẽ ông hy vọng tôi có thể giải được mối bất hòa ấy bằng cách nói cho cô biết điều gì đã chia rẽ hai ông cháu".
Sophie vặn vẹo người trên ghế: "Tôi chưa kể với anh chuyện gì đã làm chúng tôi xa nhau".
Langdon nhìn cô chăm chú: "Cô đã chứng kiến một lễ thức giới tính, phải không?".
Sophie co người lại: "Làm sao anh biết điều đó?".
Sophie, cô đã từng nói với tôi rằng cô đã chứng kiến sự việc gì đó làm cô tin rằng ông cô ở trong một hội kín. Và điều cô nhìn thấy đủ làm cô xáo đảo đến mức không nói chuyện với ông cô từ đó. Tôi biết khá nhiều về các hội kín. Cũng không cần đến bộ óc của Da Vinci để đoán ra cô nhìn thấy cái gì".
Sophie nhìn đăm đăm.
"Nó diễn ra vào mùa xuân". Langdon hỏi. "Thời gian vào khoảng xuân phân? Giữa tháng ba?".
Sophie nhìn ra ngoài cửa sổ: "Tôi có được kỳ nghỉ xuân ở trường đại học. Tôi về nhà sớm một vài ngày".
"Cô muốn kể cho tôi nghe chuyện đó không?".
"Tôi không muốn". Cô đột ngột quay về phía Langdon, đôi mắt rưng rưng xúc động. "Tôi không biết mình nhìn thấy cái gì".
"Có cả đàn ông và phụ nữ hiện diện phải không?".
Sau một nhịp, cô gật đầu.
"Mặc đồ trắng và đen?".
Cô lau nước mắt rồi gật đầu, dường như cới mở hơn một chút: "Phụ nữ mặc váy trắng mỏng…với giày vàng. Họ cầm những quả cầu vàng. Đàn ông mặc áo dài thắt ngang lưng màu đen, đi giày đen".
Langdon ráng che giấu sự xúc động của mình, tuy nhiên ông không tin nổi điều mình đang nghe thấy. Sophie Neveu đã vô tình chứng kiến một nghi lễ thiêng liêng có lịch sử 2000 năm.
"Đeo mặt nạ?", ông hỏi, cố gắng giữ giọng bình tĩnh. "Mặt nạ không phân biệt giới tính?".
"Phải, tất cả mọi người. Những chiếc mặt nạ y hệt nhau. Trắng cho phụ nữ. Đen cho đàn ông".
Langdon đã từng đọc bản mô tả nghi lễ này và hiểu gốc rễ huyền bí của nó. "Nó được gọi là Hieros Gamos", ông nói nhẹ nhàng. "Nó có từ cách đây hơn 2000 năm. Các tu sĩ Ai Cập, nam và nữ, thường xuyên tiến hành nghi lễ này để tôn vinh sức mạnh sinh sản của nữ giới". Langdon ngừng lời, ngả người về phía cô: "Và nếu cô chứng kiến lễ Hieros Clamos mà không được chuẩn bị đầy đủ để có thể hiểu hết ý nghĩa của nó, tôi có thể tưởng tượng được là nó đã gây sốc cho cô như thế nào".
Sophie không nói gì.
"Hieros Gamos là tiếng Hy Lạp", ông tiếp tục, "nó có nghĩa là hôn nhân thần thánh". "Nghi lễ tôi nhìn thấy không phải là hôn nhân".
"Hôn nhân theo nghĩa hợp nhất, Sophie".
"Anh muốn nói theo nghĩa tình dục?".
"Không".
"Không ư?", Cô hỏi, đôi mắt màu ô-liu nhìn ông dò xét.
Langdon sửa lại: "Ô… phải, cũng là một cách nói, nhưng không như chúng ta hiểu nó ngày nay". Ông giải thích rằng mặc dầu cái cô nhìn thấy có vẻ giống như một nghi thức tình dục nhưng Hieros Gamos không có gì liên quan gì đến tính khiêu dâm. Nó là một hành động tâm linh. Về mặt lịch sử mà nói, giao hợp là hành vi mà qua đó nam và nữ nghiệm sinh Thượng đế. Người xưa tin rằng đàn ông còn bất túc về tâm linh cho đến khi anh ta có được hiểu biết nhục dục về nữ tính thiêng liêng. Sự hợp nhất về thể xác với nữ giới là cách duy nhất qua đó người nam có thể hoàn thiện về mặt tâm linh và cuối cùng đạt được ngộ đạo - hiểu biết tính thần thánh. Từ thời đại của Iris, những lễ thức tình dục đã được xem như là cầu nối duy nhất của con người từ mặt đất đến thiên giới. "Bằng cách hòa đồng với phụ nữ", Langdon nói, "đàn ông có thể đạt tới giây phút đỉnh điểm khi trí óc anh ta hoàn toàn trống trơn và khi đó anh ta có thể nhìn thấy Chúa Trời".
Sophie có vẻ hoài nghi: "Sự cực khoái như lời cầu nguyện?".
Langdon nhún vai không khắng định, mặc dầu Sophie cơ bản là đúng: Nói theo sinh lý học, kèm theo cao điểm của nam giới là một phần giây sạch trơn mọi ý nghĩ. Một thoáng trống rỗng tinh thần. Một thời điểm tường minh trong đó người ta có thể thoáng thấy Chúa Trời. Các bậc guru nhập thiền đã đạt đến trạng thái không ý nghĩ tương tự mà không cần đến tình dục và thường miêu tả Nirvana - Niết Bàn như một sự cực khoái tâm linh bất tận.
"Sophie", Langdon điềm đạm nói, "cần phải nhớ rằng quan điểm của người xưa về tình dục hoàn toàn đối lập với chúng ta ngày nay. Tình dục sinh ra sự sống mới - cái phép màu tối hậu - và phép màu này chỉ có thể được thực hiện bởi một vị thần.
Khả năng của người phụ nữ có thể sản sinh ra sự sống từ tử cung của mình khiến nàng trở nên thiêng liêng. Một vị thần.
Giao hợp là sự hợp nhất tôn kính của hai nửa tinh thần nhân loại - nam và nữ - mà qua đó người nam có thể tìm thấy sự trọn vẹn về mặt tâm linh thần và hòa đồng với Thượng Đế. Cái mà cô nhìn thấy không thuộc về tình dục, nó thuộc về tâm linh. Nghi lễ Hieros Gamos không phải là một sự đồi trụy. Nó là một nghi lễ thiêng liêng sâu xa".
Những lời của ông dường như đã đánh trúng một huyệt thần kinh. Sophie đã tỏ ra rất tự chủ suốt cả buổi tối, nhưng giờ đây, lần đầu tiên, Langdon thấy vẻ điềm tĩnh ấy bắt đầu rạn nứt.
Nước mắt lại ứa ra và cô lấy ống tay áo chấm.
Ông để cô yên một lát. Phải thú nhận rằng khái niệm tình dục như là con đường dẫn tới Thượng Đế, thoạt đầu thật đáng kinh ngạc. Các sinh viên người Do Thái của Langdon thường sững sờ khi lần đầu nghe ông giảng rằng truyền thống Do Thái xưa bao gồm cả tình dục trong nghi lễ. Trong thánh đường, không hơn không kém. Người Do Thái cổ xưa tin rằng nội điện của đền thờ Solomon không chỉ là chỗ ở của Chúa mà còn là chỗ ở của người phụ nữ hùng mạnh bằng vai phải lứa với Người, Srekinah. Những người đàn ông tìm kiếm sự trọn vẹn về tâm linh đến Đền Thờ thăm những nữ tu - hay hierodule (1) - để làm tình với họ và nghiệm sinh tính thần thánh qua sự hợp nhất thể xác. Từ Do Thái bốn chữ cái YHWH - tên thiêng của Chúa Trời - thực ra là phát sinh từ Jehovah, một hợp nhất vật thể lưỡng tính giữa cái tên Jah điển hình nam tính và cái tên thuộc ngôn ngữ tiền Hebrơ cho Eva (2), Havah.
"Đối với Giáo hội thời xưa", Langdon giải thích với giọng nhẹ nhàng, "Việc con người dùng tình dục để giao cảm trực tiếp với Chúa Trời gây ra một đe dọa nghiêm trọng đối với nền tảng quyền lực của Thiên Chúa Giáo. Nó đặt Giáo hội ra ngoài cuộc, phá hoại cái địa vị tự xưng là con đường duy nhất dẫn tới Chúa.
Vì những lý do hiển nhiên này, họ đã ra sức bỉ báng tình dục là ma quỷ và xuyên tạc nó như một hành động ghê tởm và tội lỗi. Những tôn giáo lớn khác cũng làm như vậy".
Sophie im lặng, nhưng Langdon cảm thấy cô đang bắt đầu hiểu ông mình hơn. Mỉa mai thay, Langdon đã đề cập đến chính điểm này trong một bài giảng vào đầu học kỳ này. "Có đáng ngạc nhiên không khi chúng ta cảm thấy xung đột về tình dục?". Ông hỏi các sinh viên: "Di sản cổ xưa và chính ngành sinh lý học của chúng ta đều nói rằng tình dục là tự nhiên - một con đường thú vị dẫn tới sự viên mãn về tinh thần - và tôn giáo hiện đại lại coi nó như một cái gì đó đáng xấu hổ, răn dạy chúng ta sợ những khao khát tình dục của mình như sợ bàn tay của ma quỷ".
Langdon quyết định không gây sốc cho sinh viên với cái thực tế là hơn một tá hội kín - phần nhiều rất có thể lực - trên khắp thế giới hiện vẫn thực hành các nghi lễ tình dục và giữ cho truyền thống cổ xưa này sống mãi. Nhân vật của Tom Cruise trong bộ phim Eyes Wide Shut đã khám phá ra điều này một cách khó khăn khi anh ta lẻn vào một cuộc họp kín của giới tinh hoa siêu hạng ở Manhattan chỉ để thấy mình chứng kiến nghi lễ Hieros Gamos. Buồn thay, các nhà làm phim đã hiểu sai hầu hết những đặc thù, nhưng lõi cốt cơ bản thì vẫn ở đó - một hội kín giao hòa để tôn vinh ma lực của hợp nhất tình dục.
"Thưa giáo sư Langdon?". Một sinh viên nam ở cuối phòng giơ tay, giọng đầy hi vọng: "Phải chăng thầy nói thay vì đi tới nhà nguyện, chúng ta nên có nhiều hoạt động tình dục hơn?".
Langdon tủm tỉm cười, không mắc mồi. Qua những gì ông nghe thấy về các cuộc liên hoan ở Harvard, thì đám trẻ này đã có quá nhiều tình dục rồi. "Thưa quý ông", ông nói, biết rằng mình đang ở trong vấn đề nhạy cảm, "liệu tôi có thể đưa ra một gợi ý cho tất cả chăng. Không quá táo bạo để dung thứ tình dục trước hôn nhân và cũng không quá ngờ nghệch để nghĩ rằng tất cả các bạn đều là những thiên thần trong trắng, tôi xin hiến các bạn lời khuyên nhỏ này về đời sống tình dục".
Tất cả các nam sinh viên đều vươn người ra phía trước, chăm chú lắng nghe.
"Lần sau, khi các bạn thấy mình ở bên một phụ nữ, hãy nhìn vào trái tim mình, thử xem liệu các bạn có thể không tiếp cận tình dục như một hành động tâm linh huyền bí hay không. Hãy thách thức bản thân để tìm ra cái tia sáng của thiên giới mà người đàn ông chỉ có thể đạt được qua việc hợp nhất với tính nữ thiêng liêng".
Các nữ sinh viên cười tỏ vẻ hiểu biết, gật gù.
Còn các nam sinh viên trao đổi với nhau những câu thì thầm đáng ngờ trong tiếng cười khúc khích.
Langdon thở dài. Dù sao sinh viên đại học thì vẫn còn là những cậu bé.
Sophie cảm thấy lạnh khi cô áp trán vào cửa sổ máy bay và đờ đẫn nhìn vào khoảng không, cố gắng suy ngẫm những gì Langdon vừa nói với cô. Cô cảm thấy một nỗi hối tiếc mới trào lên trong lòng. Mười năm. Cô hình dung lại hàng chồng thư không mở ra mà ông cô đã gửi cho cô. Mình sẽ kể cho Robert tất cả. Không quay lại khỏi cửa sổ, Sophie bắt đầu nói. Điềm tĩnh. Ghê rợn.
Khi cô bắt đầu thuật lại chuyện đã xảy ra đêm hôm đó, cô cảm thấy mình trôi ngược về quá khứ… xuống xe ở cánh rừng bên ngoài tòa lâu đài vùng Normandie của ông cô…bối rối sục tìm khắp ngôi nhà vắng teo… nghe thấy những tiếng nói phía dưới cô…và sau đó tìm thấy cánh cửa bí mật. Cô lần xuống chiếc cầu thang đá, từng bước một, vào trong cái hang ở tầng hầm. Cô thấy không khí có mùi vị đất. Mát và dịu nhẹ. Đó là vào tháng ba. Trong bóng tối nơi cô náu mình trên cầu thang, cô dõi theo những người lạ lắc lư, cầu kinh trong ánh nến màu da cam bập bùng. Mình đang mơ, Sophie tự nhủ. Đây là một giấc mơ. Có thể là cái gì khác được nhỉ?
Nữ và nam đứng xen kẽ, đen, trắng, đen, trắng. Những tà áo dài nữ đẹp và mỏng dính rập rờn khi họ giơ cao trong tay phải quả cầu vàng và kêu lên đồng thanh. "Ta đến cùng con trong sự khởi đầu, trong ánh bình minh của tât cả những gì thiêng liêng, ta sinh ra con từ tử cung trước khi một ngày mới bắt đầu".
Đám phụ nữ hạ thấp quả cầu của họ, và tất cả mọi người lắc lư từ đằng sau ra đằng trước như thể nhập đồng. Họ đang cúng bái một cái gì đó ở tâm vòng tròn.
Họ nhìn cái gì vậy?
Tiếng cầu kinh lúc này dồn dập lên. To hơn. Nhanh hơn. "Người nữ ngươi nhìn ngắm chính là tình yêu?" Đám phụ nữ xướng lên, lại giơ cao quả cầu.
Đám đàn ông đáp lại: "Nàng trú ngụ trong vĩnh cửu".
Tiếng cầu lại trở nên đều đặn liên tục.Nhanh. Như sấm rền. Nhanh hơn. Những người tham dự bước vào trong và quỳ xuống.
Trong khoảnh khắc đó, cuối cùng Sophie cũng thấy họ đang nhìn cái gì.
Trên một bàn thờ thấp trang hoàng lộng lẫy ở giữa vòng tròn, một người đàn ông đang nằm. Ông ta hoàn toàn khoả thân, được đặt nằm ngửa và đeo mặt nạ đen. Sophie lập tức nhận ra thân thể và vết bớt trên vai ông. Cô suýt òa khóc. Grand-pere!(3) chỉ riêng hình ảnh đó đã đủ làm Sophie bàng hoàng không tin được, vậy mà còn nhiều hơn thế nữa.
Cưỡi trên người ông cô là một phụ nữ trần truồng đeo mặt nạ trắng, mái tóc bạch kim dày xõa xuống sau lưng. Cơ thế cô ta phốp pháp, còn xa mới đến mức hoàn hảo, và cô ta đang uốn éo theo nhịp kinh cầu - làm tình với ông của Sophie.
Sophie muốn quay đi và bỏ chạy, nhưng không thề. Những bức tường đá của căn phòng - hang động như cầm cô khi bài kinh cầu ré lên tới cao độ như phát sốt. Vòng tròn những người tham gia lúc này gần như đang hát, tiếng ồn cứ to dần lên tới mức điên cuồng. Với một tiếng gầm rú đột ngột, toàn bộ căn phòng như bùng nổ đến cao trào. Sophie không thở được. Cô nhận ra mình đang nức nở không ra tiếng. Cô quay lại, loạng choạng bước lặng lẽ lên cầu thang, ra khỏi ngôi nhà, và run rẩy lái xe quay về Paris. Chú thích: (1) Nữ nô lệ phục vụ trong các đền thờ cổ Hy Lạp. (2) Theo Kinh Thánh, ngưởi đàn bà đầu tiên do Chúa Trời tạo ra cùng với Adam. (3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: ông tôi.
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853
Chương 75
Chiếc máy bay cánh quạt thuê đang bay ngang qua những ánh đèn sáng lấp lánh của Monaco khi Aringonosa chấm dứt cuộc nói chuyện điện thoại với Fache lần thứ hai. Ông lại với lấy cái túi nôn nhưng cảm thấy quá kiệt sức đến không còn buồn nôn nữa.
Thôi thì cứ để nó xong béng đi!
Tin tức cập nhật nhất của Fache dường như khôn lường nổi, đêm nay hầu như chẳng có gì ra sao cả. Chuyện gì đang diễn ra? Mọi thứ rối tinh rối mù lên ngoài tầm kiểm soát. Mình đã đẩy Silas vào việc gì thế này? Mình đã đẩy bản thân vào cái gì thế này?
Đôi chân run rẩy, Anngarosa đi tới buồng lái: "Tôi cần thay đổi nơi đến".
Người phi công ngoái nhìn qua vai và cười: "Cha đang nói đùa phải không?".
"Không. Tôi phải với London ngay lập tức".
"Thưa Cha, đây là chuyến bay thuê theo hợp đồng, không phải taxi".
"Tất nhiên, tôi sẽ trả thêm. Bao nhiêu? London chỉ quá lên phía bắc một giờ đồng hồ và hầu như không đòi hỏi đổi hướng, cho nên… ".
"Không phải vấn đề tiền bạc, thưa Cha, còn có những vấn đề khác nữa".
"Mười ngàn euro. Ngay bây giờ".
Người phi công quay lại, đôi mắt mở to vì kinh ngạc: "Bao nhiêu? Loại tu sĩ nào có thể mang theo từng ấy tiền mặt?".
Aringarosa quay lại chỗ chiếc cặp da đen, mở nó và rút ra một trong những tờ séc. Ông đưa nó cho người phi công.
"Cái gì đây?", Người phi công hỏi.
"Tờ séc mười nghìn euro rút từ nhà băng Giáo hội Thiên Chúa Giáo Vatican".
Người phi công có vẻ hoài nghi.
"Nó có giá trị như tiền mặt".
"Tiền mặt là tiền mặt", người phi công nói, trả lại tờ séc.
Aringarosa cảm thấy yếu lả đi khi dựa mình vào cửa buồng lái. "Đây là vấn đề sống còn. Anh phải giúp tôi. Tôi cần tới London".
Người phi công nhìn chiếc nhẫn vàng của vị Giám mục:
"Kim cương thật à?".
Aringonosa nhìn chiếc nhẫn: "Đây là vật bất ly thân".
Người phi công nhún vai, quay lại và tập trung về phía ngoài kính chắn gió.
Aringonosa cảm thấy một nỗi buồn sâu sắc. Ông nhìn chiếc nhẫn. Dù sao đi nữa, Gám mục cũng sắp mất hết mọi thứ mà nó đại diện cho. Sau một lúc lâu, ông tháo chiếc nhẫn khỏi ngón tay và đặt nó nhẹ nhàng lên bảng điều khiển.
Aringonosa lách mình ra khỏi buồng lái và quay về chỗ ngồi xuống. Mười lăm giây sau, ông cảm thấy người phi công điều chỉnh thêm vài độ bay về hướng bắc.
Dù vậy, giây phút vinh quang của Aringonosa vẫn cứ là tan vỡ.
Tất cả đã bắt đầu như là một sự nghiệp thiêng liêng. Một kế hoạch được xây dựng xuất sắc. Bây giờ, thì giống như ngôi nhà bằng quân bài, nó đang tự sụp đổ… và đoạn kết còn mù mịt chưa thấy đâu cả.
Chương 76
Có thể thấy Sophie vẫn còn run rẩy do việc kể lại trải nghiệm của mình với nghi lễ Hieros Gamos. Về phần ông, Langdon cũng ngạc nhiên về những gì nghe được. Sophie không chỉ chứng kiến toàn bộ nghi lễ đó mà còn thấy ông mình là người chủ tế… Đại sư của Tu viện Sion. Đó là những người thông minh sáng láng. Da Vinci, Botticelli, Isaac Newton, Victo Hugo, Jean Coccau,…và Jacques Saunière.
"Tôi không biết mình có thể nói gì thêm với cô", Langdon nói nhẹ nhàng.
Cặp mắt Sophie lúc này xanh thăm thẳm, đẫm lệ "Ông tôi đã nuôi dạy tôi như con gái ruột".
Bây giờ Langdon mới nhận ra nỗi xúc động trào dâng trong đôi mắt cô trong khi họ nói chuyện. Đó là sự hối hận. Xa xôi mà sâu sắc. Sophie Neveu đã xa lánh ông cô và giờ đây, cô đang nhìn ông dưới ánh sáng hoàn toàn khác.
Bên ngoài, bình minh đang lên nhanh, quầng sáng đỏ thắm tập trung bên mạn phải máy bay. Trái đất vẫn một màu đen bên dưới họ.
"Thức ăn đồ uống đây, các bạn thân mến?". Teabing quay trở lại hoan hỉ, chìa ra một vài lon Coca và một hộp bánh quy giòn.
Vừa phân phối, ông vừa xin lỗi rối rít vì thức ăn có hạn. "Người bạn của chúng ta - gã thầy tu vẫn không nói gì", ông nói, "Nhưng hãy cho anh ta thời gian". Ông cắn một cái bánh quy và liếc nhìn bài thơ. "Này, bạn yêu quý, có tiến triển chút nào không?". Ông đưa mắt nhìn Sophie. "Ông cô đang cố gắng nói với chúng ta điều gì ở đây? Tấm bia ấy đang ở nơi quỉ quái nào? Tấm bia được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi ấy".
Sophie lắc đầu và vẫn yên lặng.
Trong khi Teabing lại chúi vào bài thơ, Langdon bật nắp một lon Coca và quay mặt về phía cửa sổ suy nghĩ của ông miên man với những hình ảnh về nghi thức bí ẩn và mật mã chưa được giải đáp. Một tấm bia Templar ca ngợi là chìa khóa. Ông uống một hơi dài lon Coca. Một tấm bia Templar ca ngợi. Nước Coca thật ấm.
Màn đêm dường như tan biến nhanh chóng và khi quan sát sự thay đổi đó, Langdon thấy đại dương lung linh trải rộng bên dưới họ. Eo biển anche. Không còn lâu nữa.
Langdon mong ánh sáng ban ngày sẽ mang đến một sự rọi sáng mới, nhưng bên ngoài càng sáng lên thì ông càng cảm thấy mình xa sự thật hơn. Ông nghe thấy nhịp điệu của thể thơ năm ngũ bộ iambic và tiếng tụng ca, nghi lễ Hieros Gamos và các nghi lễ thiêng liêng khác lẫn với tiếng ầm ì của máy bay phản lực.
Một tấm bia Temlar ca ngợi.
Máy bay lại bay trên đất liền khi một tia sáng loé lên trong đầu ông. Langdon đặt lon Coca xuống: "Chắc các vị không tin đâu ông nói, hướng về phía những người khác, "Tấm bia Templar… tôi đã đoán ra".
Teabing tròn xoe mắt: "Anh biết tấm bia ở đâu?".
Langdon cười: "Không phải ở đâu mà là cái gì".
Sophie rướn người lên để nghe.
"Tôi nghĩ tấm bia - headstone - phải hiểu theo nghĩa đen của từ stone head nghĩa là đầu đá", Langdon giải thích, thường thức niềm phấn khích quen thuộc trước mỗi đột phá về học thuật.
"Không phải là cái để đánh dấu mộ".
"Một đầu đá?", Teabing hỏi.
Sophie có vẻ cũng bối rối.
"Leigh", Langdon nói, quay lại, trong Toà án dị giáo, Giáo hội đã kết tội các Hiệp sĩ Templar về đủ mọi thứ tà đạo, đúng không?".
"Chính xác. Họ bịa đặt ra tất cả mọi tội. Tình dục đồng giới, tiểu tiện lên thánh giá, thờ cúng quỷ ác, cả một danh sách dài". Và trong danh sách đó có cả việc thờ cúng ngẫu tượng, đúng không? Đặc biệt hơn, Giáo hội đã kết tội các Hiệp sĩ Templar vì đã bí mật tiến hành nghi lễ cầu nguyện trước một cái đầu đá được đẽo… vị thần ngoại giáo…".
"Baphomet!" Teabing buột mồm. "Trời, Robert, anh đã đoán đúng! Một tấm bia Templar ca ngợi?".
Langdon nhanh chóng giải thích cho Sophie rằng Baphomet là một vị thần ngoại giáo tượng trưng cho sự phồn thực, gắn với sức mạnh sáng tạo trong sinh sản. Cái đầu của Baphomet được thể hiện như đầu cừu đực hay đầu dê, một biểu tượng chung cho sự sinh sôi nảy nở và sự mắn đẻ. Các Hỉệp sĩ Templar tôn vinh Baphomet bằng cách đi vòng quanh mô hình cái đầu bằng đá của ông ta và hát kinh cầu nguyện.
"Baphomet", Teabing cười gằn, "nghi lễ này tôn vinh điều sáng tạo kì diệu của việc hợp nhất giới tính, nhưng Giáo hoàng Clement lại thuyết phục mọi người rằng cái đầu của Baphomet trên thực tế là quỷ dữ. Giáo hoàng sử dụng chiếc đầu này như chứng cớ chủ chốt trong vụ án các Hiệp sĩ Templar".
Langdon đồng tình. Tín ngưỡng hiện đại nhằm vào một con quỷ có sừng gọi là Satan có thể truy nguyên từ Baphomet và từ những mưu toan của Giáo hội nhằm bóp méo vị thần phồn thực có sừng thành một biểu tượng của cái ác. Rõ ràng Giáo hội đã thành công tuy chưa phải là hoàn toàn. Trên những bàn ăn trong ngày lễ Tạ ơn truyền thống ở Mỹ vẫn có những thứ mang sừng, biểu tượng ngoại giáo của sự phồn thực. Chiếc sừng dê kết hoa quả, được gọi là "sừng sung túc", là một biểu hiện tôn kính đối với tính phồn thực của Baphomet, nó bắt nguồn từ câu chuyện Zeus bú sữa một con dê thế rồi sừng nó gẫy ra và đầy ắp hoa quả bởi phép mầu. Baphomet cũng xuất hiện trong các bức ảnh chụp chung khi những kẻ thích đùa giơ hai ngón tay sau đầu bạn mình theo hình chữ V tượng trưng cho sừng, chắc chắn rất ít người hay đùa như vậy biết rằng những cử chỉ chế nhạo của họ trên thực tế là quảng cáo cho sự dồi dào tinh trùng của nạn nhân.
"Phải, phải", Teabing nói với vẻ thích thú, bài thơ ắt phải nhằm ám chỉ Baphomet. Một cái đầu bằng đá được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi!".
"Được", Sophie nói, "nhưng nếu Baphomet là cái đầu đá được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi thì chúng ta lại rơi vào một tình thế khó xử mới", Sophie chỉ vào những cái đĩa của hộp mật mã, "Baphomet có tám chữ cái. Hiện nay chúng ta chỉ có chỗ cho năm chữ cái!".
Teabing cười toác miệng: "Bạn thân mến, đấy chính là chỗ mật mã Atbash phát huy tác dụng".
Chương 77
Langdon thán phục. Teabing vừa viết ra xong toàn bộ 22 chữ cái của bảng chữ cái Hebrew - alef-bet - theo trí nhớ. Đành rằng ông đã dùng kí tự La Mã tương đương thay vì chính chữ cái Hebrew, tuy nhiên, giờ đây ông đọc qua chúng với cách phát âm không chút sai sót.
A B G D H V Z Ch T Y K L M N S O P Tz Q R Sh Th "Alef, Belt, Gimel, Dalet, Hei, Vav, Zayin, Chet, let, Yud, Kaf, Lamed, Mem, Nun, Samcch, Ayin, Pel, Tradik, Kuf, Reishs Shin va Tav".
Teabing lau trán và tiếp tục: "Trong chính tả Hebrew chính thức, nguyên âm không được viết ra. Do đó, khi chúng ta dùng chữ cái Hebrew để viết từ Bahome, nó sẽ mất đi ba nguyên âm và chúng ta còn lại…".
"Năm chữ cái", Sophie bật ra.
Teabing gật đầu và bắt đầu viết lại: "Được, đây là Baphomet viết đúng chính tả bằng chữ cái Hebrew. Tôi sẽ phác luôn cả những nguyên âm khuyết diện để cho rõ ràng hơn". B a PV o M e Th.
"Tất nhiên, hãy nhớ", ông bổ sung thêm, "rằng tiếng Hebrew thường được viết theo chiều hướng ngược, nhưng chúng ta có thể dễ dàng sứ dụng mật mã Atbash theo cách này. Bước tiếp theo, tất cả những gì chúng ta phải làm là tạo ra cách sắp xếp thay thế bằng cách viết lại toàn bộ bảng chữ cái theo trật tự đảo ngược với bảng chữ cái ban đầu".
"Có một cách dễ hơn", Sophie nói, lấy bút từ tay Teabing, nó hiệu nghiệm đối với mọi mật mã thay thế phản chiếu, kể cả mật mã Atbash. Một mẹo nhỏ tôi học được ở Royal Holloway". Sophie viết nửa bảng chữ cái đầu từ trái qua phải, sau đó bên dưới, viết phần còn lại của bảng chữ cái từ phải qua trái. "Người giải mật mã gọi nó là fold-over. Giảm nửa phần phức tạp. Nhưng lại rõ ràng gấp đôi".
A B G D H V Z Ch T Y K
Th Sh R Q Tz P O S N M L
Teabing nhìn bảng kẻ bằng tay của cô và cười khúc khích:
"Cô đã đúng. Rất vui được thấy là các chàng trai ở Holloway làm tốt công việc của họ".
Nhìn vào ma trận thay thế của Sophie, Langdon cảm thấy một nỗi rộn ràng mỗi lúc một tăng mà ông nghĩ có thể sánh với nỗi rộn ràng của các nhà học giả khi lần đầu tiên họ đùng mật mã Atbash để giải mã Bí mật Sheshach, một bí mật giờ đây đã trở nên nổi tiếng. Suốt nhiều năm, các học giả về tôn giáo đã bối rối khó hiểu những chỗ trong Kinh Thánh quy chiếu đến một thành phố mang tên Sheshach. Thành phố này không xuất hiện trên bất cứ bản đồ nào hay bất cứ tài liệu nào nhưng lại được đề cập đến trong Sách của Jememiah - vị vua của Sheshach, thành phố Sheshach, nhân dân Shesbach. Cuối cùng, một học giả đã áp dụng mật mã Atbash vào từ này, và kết quả công việc của ông làm mọi người ngớ ra. Mật mã tiết lộ rằng Sheshach trên thực tế là một từ mã hóa cho một thành phố rất nổi tiếng khác. Quá trình rất đơn giản.
Sheshach, trong tiếng Hebrew được phát âm là: Sh - Sh - K
Sh - Sh - K khi được thay thế trong ma trận trở thành B - B - L
B - B - L, trong ngôn ngữ Hebrew, phát âm là Babel
Thành phố bí ẩn Sheshach được tiết lộ là thành phố Babel, và tiếp đó một phong trào rộ lên như điên: xem xét lại Kinh Thánh. Trong vòng nhiều tuần, nhiều từ mật mã Atbash đã được phát hiện trong Kinh Cựu ước, phơi bày vô số ý nghĩa ẩn giấu mà các học giả cũng không biết là có ở đó.
"Chúng ta ang đến gần", Langdon thì thầm, không thể kiểm soát niềm phấn khích của mình.
"Vài phân nữa, Robert ạ", Teabing nói. Ông ngước nhìn Sophie và cười. "Cô sẵn sàng chưa?".
Cô gật đầu.
Được rồi, Baphomet trong ngôn ngữ Hebrew không nguyên âm viết là: B - P - V - M - Th. Bây giờ chúng ta chỉ cần đối chiếu với ma trận thay thế Atbash để dịch những bí từ này sang mật khẩu năm chữ của chúng ta".
Tim Langdon đập thình thịch: B - P - V - M - Th. Ánh mặt trời đang tràn qua cửa sổ. Ông nhìn vào bảng ma trận đối chiếu của Sophie và chậm rãi thay thế. B là Sh. P là V…
Teabing cười toe toét như một cậu học sinh trong mùa Giáng sinh: "Và mật mã Atbash hé lộ…". Ông dừng lại một lát, "Chúa ơi!". Gương mặt ông trắng bệch đi.
Langdon ngẩng phắt đầu lên.
"Có chuyện gì không ổn?" Sophie hỏi.
"Cô không tin được đâu", Teabing đưa mắt nhìn Sophie, "đặc biệt với cô".
"Ông định nói gì?". Cô nói.
"Điều này… thật là tài tình", ông thì thầm: "Cực kỳ tài tình!".
Teabing viết lại trên giấy. "Nổi trống lên! Đây là mật khẩu của quý vị,, ông giơ cho họ thấy cái ông đã viết.
Sh - V - P - Y - A
Sophie cau mặt: "Nó là cái gì?".
Langdon cũng không nhận ra.
Gịong Teabing như run lên vì kính sợ: "Bạn ạ, đây thực sự là một từ thông thái cổ xưa!".
Langdon đọc lại những chữ đó. Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này. Lát sau, ông hiểu ra. Ông đã không thấy điều này tới. Một từ thông thái cổ!".
Teabing cười: "Theo nghĩa đen!".
Sophie nhìn từ này và sau đó nhìn đĩa chứ. Ngay lập tức, cô nhận ra là Langdon và Teabing đã không thấy một trục trặc nghiêm trọng: "Khoan! Đây không thể là mật khẩu", cô cãi.
Hộp mật mã không có Sh trên đĩa chữ. Nó dùng bảng chữ cái La Mã truyền thống". "Đọctừ này lên", Langdon giục. "Hãy nhớ hai điều. Trong ngôn ngữ Hebrew, kí tự cho âm Sh cũng có thể được phát âm như S, phụ thuộc vào trọng âm. Cũng như chữ cái P có thể đọc là F". SVFYA?Cô nghĩ, bối rối.
"Thiên tài!". Teabing chêm vào. "Chữ cái V thường thay thế cho nguyên âm O!".
Sophie lại nhìn vào các chữ cái, cố đọc lên thành âm chuẩn.
"S… o… f… y… a".
Cô nghe thấy chính tiếng mình, và không thể tin vào cái mình vừa thốt ra. "Sophia? Chữ này phát âm như Sophia?".
Langdon gật đầu: "Phải! Sophia nghĩa đen là thông thái trong tiếng Hy Lạp. Tên gốc của cô, Sophie, là một "từ thông thái".
Sophie bỗng nhớ ông mình da diết. Ông đã mã hóa viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion bằng tên của mình. Cổ họng cô nghẹn lại. Tất cả dường như rất hoàn hảo. Nhưng khi cô quay lại nhìn vào năm đĩa chữ trong hộp mật mã, cô nhận thấy vẫn còn điều gì đó không ổn. "Nhưng khoan đã…Sophia có sáu chữ cái".
Nụ cười của Teabing dường như không bao giờ tắt: "Hãy xem lại bài thơ. Ông cô đã viết "Một từ thông thái cổ".
"Nghĩa là?".
Teabing nháy mắt: "Trong tiếng Hy Lạp cổ, thông thái được viết là S-O-F-I-A".
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853
Sophie cảm thấy một nỗi háo hức cuồng dại khi cô đặt hộp mật mã vào lòng và bắt đầu quay đĩa chữ cái. Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này. Langdon và Teabing như ngừng thở khi họ đứng nhìn.
S…O…F
"Cẩn thận", Teabing nài nỉ, "thật cẩn thận vào!".
I…A
Sophie xoay đĩa chữ cuối cùng vào thẳng hàng: "Được rồi!". Cô thì thầm, ngước nhìn hai người kia. "Tôi sẽ kéo rời nó ra".
"Chú ý, nhớ cái lọ dấm đấy", Langdon nói, phấn khởi pha lẫn sợ hãi. "Hãy cẩn thận".
Sophie biết rằng nếu hộp mật mã này giống những hộp cô đã từng mở trong thời niên thiếu, tất cả những gì cô cần làm là nắm chặt hai đầu hình trụ, ngay mé ngoài chồng đĩa, và từ từ kéo đều tay về hai phía ngược nhau. Nếu chồng đĩa thẳng hàng đúng mật khẩu, thì một trong hai dầu sẽ trượt mở, giống như nắp một ống kính máy ảnh, và cô có thể với vào bên trong lấy cuộn tài liệu viết trên giấy papyrus, quấn quanh lọ dấm nhỏ. Tuy nhiên, nếu mật khẩu mà họ nhập không đúng, lực kéo ra của Sophie đối với hai đầu hình trụ sẽ truyền tới một đòn bẩy có lắp bản lề ở bên trong, đòn bẩy này sẽ xoay xuống lọt vào cái hốc và tạo áp lực trên chiếc lọ thủy tinh, cuối cùng làm nó vỡ tan nếu cô kéo quá mạnh.
Kéo nhẹ nhàng, cô tự nhủ.
Cả Teabing và Langdon đều cúi về phía Sophie khi cô nắm hai đầu chiếc ống hình trụ trong lòng bàn tay. trong niềm hứng khởi vì đã giải được từ mật mã, Sophie hầu như quên mất cái mà họ mong tìm thấy bên trong. Đó là viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion. Theo Teabing, nó chứa đựng một bản đồ chỉ dẫn tới Chén Thánh, tiết lộ ngôi mộ của Mary Maygdalene và kho báu Sangreal… kho báu tối hậu của sự thật bí mật.
Lúc này, tay nắm chặt ống trụ đá, Sophie kiểm tra lại để đảm bảo tất cả các chữ cái đều đã thẳng hàng với con trỏ. Sau đó, chậm rãi, cô kéo. Không có gì xảy ra. Cô kéo mạnh hơn. Đột nhiên, hòn đá trượt ra giống như một ống kính viễn vọng tinh xảo.
Miếng ghép ở đầu tách rời ra trong tay cô. Langdon và Teabing gần như nhảy lên. Nhịp tim của Sophie đập đồn dập khi cô đặt cái nắp lên trên bàn và nghiêng ống trụ để nhòm vào bên trong.
Một cuộn giấy!
Nhòm vào trong cuộn giấy, Sophie thấy nó được quấn quanh vật hình trụ - cái lọ dấm, cô đoán. Tuy nhiên, lạ thay, tờ giấy bọc xung quanh lọ dấm không phải là thứ giấy mỏng thông thường - papyus mà là giấy da. Thật kì lạ, cô nghĩ, dấm không thể hòa tan giấy bằng da cừu. Cô nhìn lại vào lòng cuộn giấy và nhận ra vật ở giữa cuộn giấy không phải là lọ dấm. Nó là một vật hoàn toàn khác.
"Có gì không ổn sao?", Teabing hỏi. "Kéo cuộn giấy ra đi".
Cau mày, Sophie nắm lấy cuộn giấy da và vật được gói bên trong, kéo cả hai ra khỏi ống đựng.
"Không phải giấy papyrus", Teabing nói. "Nó quá nặng".
"Tôi biết. Nó là thứ để đệm lót".
"Cho cái gì? Cho lọ dấm à?".
"Không!" Sophie mờ cuộn giấy ra, để lộ cái gì được gói bên trong. "Cho cái này".
Khi Langdon nhìn thấy vật bên trong cuộn giấy da, tim ông trĩu xuống.
"Chúa hãy giúp chúng ta?". Teabing nói. "Ông cô quả là một kiến trúc sư tàn nhẫn".
Langdon ngỡ ngàng nhìn trăn trối. Mình thấy Saunière không có ý định làm cho điều này dễ dàng.
Một cái ống trụ thứ hai được đặt trên bàn. Nhỏ hơn. Làm bằng mã não đen. Được đặt nằm gọn trong ống thứ nhất. Đam mê của Saunière đối với thuyết nhị nguyên. Hai ống trụ. Mọi thứ đều thành đôi. Nghĩa là nước đôi. Đực - cái. Đen nằm bên trong trắng.
Langdon cảm thấy mạng biểu tượng đang triển khai.
Trắng sinh ra đen.
Tất cả đàn ông đều sinh ra từ đàn bà.
Trắng - đàn bà.
Đen - đàn ông.
Với lấy cái hộp mật mã nhỏ hơn, Langdon nâng nó lên. Nó trông giống hệt cái hộp thứ nhất, ngoại trừ nó chỉ bằng một nửa về kích cỡ, có màu đen. Ông nghe thấy tiếng ùng ục quen thuộc. Có vẻ như cái lọ dấm mà họ đã nghe trước đây nằm bên trong cái ống trụ nhỏ này.
"Tốt, Robert", Teabing nói, đẩy trang giấy da về phía Langdon. "Các bạn sẽ hài lòng khi nghe thấy rằng chí ít chúng ta cũng đang bay đúng hướng".
Langdon xem xét miếng giấy da dày. Đó là bốn câu thơ khác được viết bằng một kiểu chữ hoa mĩ. Lại là thể thơ ngũ bộ iambic. Bài thơ thật bí hiểm, nhưng Langdon chỉ cần đọc câu đầu tiên cũng thấy được rằng kế hoạch của Teabing bay tới Anh là đắc sách.
Ở LONDON YÊN NGHỈ MỘT HIỆP SĨ ĐƯỢC GIÁO HOÀNG MAI TÁNG
Phần còn lại của bài thơ hàm ý rằng mật khẩu để mở cái ống trụ thứ hai có thể được tìm thấy bằng cách đến thăm ngôi mộ của hiệp sĩ này, ở đâu đó trong thành phố.
Langdon náo nức quay về phía Teabing: "Ngài có biết bài thơ này nhắc đến hiệp sĩ nào không?".
Teabing cười: "Tuyệt đối không. Nhưng tôi biết đích xác chúng ta nên tìm ở hầm mộ nào".
Vào lúc đó cách mười lăm dặm, sáu chiếc xe cảnh sát ở Kent phóng rất nhanh trên những con phố ẩm ướt mưa, hướng về phía sân bay Biggin Hill Executive. Chương 79
Trung uý Collet tự rót cho mình một ly Perrier từ tủ lạnh của Teabing và sải bước qua phòng khách trở ra ngoài. Thay vì theo Fache tới London là hiện trường hành động, giờ đây anh phải làm "vú em" trông coi đội PTS đang rải ra khắp Château Villette.
Cho tới giờ, các bằng chứng họ phát hiện được không giúp ích gì cho lắm: một viên đạn găm trên sàn nhà, một tờ giấy với các biểu tượng được vẽ nguệch ngoạc kèm theo những từ lưỡi dao và thắt lưng hành xác và một dây lưng có ngạnh đẫm máu mà PTS nói với Collet rằng nó gắn liền với giáo đoàn Thiên Chúa giáo bảo thủ Opus Dei, nhóm này gần đây đã gây chấn động khi một chương trình tin tức vạch trần việc họ tuyển mộ người rất hung hãn ở Paris.
Collet thở dài. Chúc may mắn để hiểu ra được cái mớ hỗn tạp này.
Đi theo hành lang sang trọng, Collet bước vào phòng khiêu vũ rất rộng, nơi người kiểm tra chính của PTS đang bận rộn thu thập dấu vân tay. Anh ta là một người to béo mặc quần có dây đeo.
"Có gì không?", Collet bước vào hỏi.
Người kiểm tra lắc đầu: "Không có gì mới. Nhiều bộ dấu tay khớp với những dấu tìm được khắp ở phần còn lại của ngôi nhà".
"Dấu tay trên chiếc đai hành xác thì sao?".
"Interpol vẫn đang làm việc. Tôi đã nạp vào máy vi tính tất cả những thứ chúng ta tìm thấy".
Collet chỉ vào hai cái túi đựng bằng chứng đã niêm phong ở trên bàn: "Còn những thứ này thì sao?".
Người kia nhún vai: "Sức mạnh của thói quen. Tôi bỏ vào túi tất cả những gì có vẻ đặc biệt".
Collet bước lại. Đặc biệt
"Thật là một người Anh kỳ lạ", người kiểm tra nói. "Hãy nhìn cái này mà xem". Anh ta lục trong các túi đựng vật chứng và chọn ra một thứ, đưa cho Collet.
Bức ảnh thể hiện cổng chính của một thánh đường theo kiến trúc Gothic - một cổng tò vò truyền thống với những chỗ hõm, hẹp dần lại qua nhiều lớp có gờ nối tới một khung cửa nhỏ
Collet nghiên cứu bức ảnh và hỏi lại: "Đây là thứ đặc biệt. Hãy lật lại".
Ở mặt sau tấm ảnh, Collet thấy những ghi chú nguệch ngoạc bằng tiếng Anh, mô tả gian giữa trống và dài của một nhà thờ lớn như là một sự bí mật bày tỏ lòng tôn kính đối với tử cung người đàn bà. Điều này thật lạ lùng. Tuy nhiên, lời ghi chú mô tả cửa vào của một thánh đường, mới là cái làm anh giật mình.
"Này! Ông ta nghĩ cửa vào thánh đường biểu hiện cái…của đàn bà".
Người nhân viên kiểm tra gật đầu: "Đầy đủ cả mép âm hộ lẹm vào và một cái âm vật nhỏ xinh bên trên khung cửa". Anh thở dài: "Kiểu như khêu gợi ta muốn quay trở về nhà thờ".
Collet cầm chiếc túi đựng vật chứng thứ hai lên. Qua lớp nhựa, anh có thể nhìn thấy một tấm ảnh lớn có vẻ như là tài liệu cổ. Trên đầu bức ảnh ghi: Les Dossiers Secrets - Number 4° lm 249 (1)
Cái gì đây?". Collet hỏi.
"Tôi không biết. Ông ta có những bản sao như vậy ở khắp nhà nên tôi cho nó vào trong túi".
Collet nghiên cứu tài liệu này.
RIEURE DE SIOIU - LES NAUTONIERS/ GRAND MASTERS (2)
JEAN DE GISORS 1188-1220
MARLE DE SAINT-CLAIR 1220-1266
GUILLAUME DE GISORS 1266-1307
EDOUARD DE BAR 1307-1336
JEAN DE BAR 1336-1351
JEAN DE SAINT-CLAIR 1351-1366
BLANCE D'EVREUX 1366-1398
NICOLAS FLAMEL 1398-1418
RENE D'ANJOU 1418-1480
IOLANDE DE BAR 1480-1483
SANDRO BOTTICELLI 1483-1510
LEONARDO DA VINCI 1510-1519
CONNETABLE DE BOURBON 1519-1527
FERDINAND DE GONZAQUE 1527-1575
LOUIS DE NEVERS 1575-1595
ROBERT FLUID 1595-1637
J. VALENTIN ANDREA 1637-1654
ROBERT BOYLE 1654-1691
ISAAC NEWTON 1691-1727
CHARLES RADCLYFFE 1727-1746
CHARLES DELORRAINE 1746-1780
MAXIMILIAN DELORRAINE 1780-1801
CHARLES NODIER 1801-1844
VICTOR HUGO 1844-1885
CLAUDE DEBUSSY 1885-1914
JEAN COCTEAU 1918-1963 Prieuré de Sion? Collet phân vân.
"Trung úy?". Một nhân viên thò đầu vào. "Tổng đài có một cú điện khẩn cho đại úy Fache, nhưng họ không liên lạc được với đại uý, ông có nhận điện không?".
Collet quay trở lại nhà bếp và nhận cuộc gọi.
Đó là André Vernet.
Âm sắc tao nhã của ông chủ nhà băng không đủ để che đậy sự căng thẳng trong giọng nói của ông: "Tôi nghĩ Đại úy Fache nói là sẽ gọi điện cho tôi, nhưng tôi vẫn chưa nhận được tin tức gì từ ông ta".
"Đại úy đang bận", Collet trả lời. "Tôi có thể gỉúp gì cho ngài?".
Người ta cam đoan với tôi rằng tôi sẽ được cập nhật về diễn tiến công việc của các ông đêm nay".
Trong khoảnh khắc, Collet nghĩ anh đã nghe thấy giọng nói của người đàn ông này ở đâu đó, nhưng không xác định được cụ thể. "Ngài Vernet, tôi đang chịu trách nhiệm điều tra ở Paris.
Tôi là trung úy Collet".
Có một quãng ngưng dài trên đường dây: "Trung úy, xin lỗi, tôi có một cuộc điện thoại khác đang chờ. Tôi sẽ gọi cho ông sau". Ông ta gác máy.
Trong vài giây, Collet vẫn giữ ống nghe. Sau đó mọi thứ trở nên rõ ràng trong đầu anh. "Mình biết mình đã nhận ra giọng nói này! Phát hiện này làm anh há hốc miệng vì kinh ngạc. Người lái chiếc xe bọc thép Với chiếc Rolex giả.
Bây giờ thì Collet mới hiểu tại sao ông chủ nhà băng lại vội vã cúp máy như vậy. Vernet đã nhớ ra cái tên trung úy Collet - người sĩ quan mà ông ta đã nói dối trắng trợn hồi đầu tối nay.
Collet ngẫm nghĩ về mối liên quan của diễn biến kì lạ này. Vernet có dính líu. Theo bản năng, anh biết mình nên gọi cho Fache. Theo cảm tính, anh biết sự khám phá may mắn này sẽ là thời điểm để anh toả sáng.
Ngay lập tức anh gọi cho Interpol và yêu cầu tất cả những thông tin mà họ có thể tìm thấy về Nhà băng Ký thác Zurich và chủ tịch của nó, André Vernet. Chú thích: (1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Những hồ sơ bí mật - Số 40 lm 249. (2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Tu viện Sion - Những người cầm lái, các Đại Sư
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853
"Thắt dây an toàn", phi công của Teabing thông báo khi chiếc Hawker 731 hạ độ cao đi vào một đám mưa bụi ảm đạm buổi sáng. "Chúng ta sẽ hạ cánh sau năm phút nữa".
Teabing cảm thấy niềm vui của người trở về cố hương khi ông nhìn thấy những ngọn đồi mù sương của Kent trải rộng dưới chiếc máy bay đang thấp dần. Từ Anh đến Paris chưa đầy một giờ bay, vậy mà như cách nhau cả một thế giới. Sáng nay, màu xanh đẫm mưa sương của mùa xuân quê hương như đặc biệt chào đón ông. Thời gian của ta ở Pháp đã hết. Ta đang trở về nước Anh trong tư thế chiến thắng. Viên đá đỉnh vòm đã được tìm ra. Tất nhiên, vẫn còn câu hỏi là viên đá đỉnh vòm đó cuối cùng sẽ dẫn đến đâu. Một nơi nào đó trên Vương quốc Anh. Chính xác là đâu, Teabing chưa biết nhưng ông đang nếm hương vị chiến thắng rồi.
Trong khi Langdon và Sophie nhìn theo, Teabing đứng dậy, đi sang mé bên kia cabin, rồi kéo một tấm ván tường sang bên để lộ một chiếc két được giấu kín sau tường. Ông quay số và mở két an toàn, lấy ra hai tấm hộ chiếu. "Giấy tờ cho Rémy và cho tôi". Sau đó, ông rút ra một tập dầy toàn tiền năm mươi bảng. "Và giấy tờ cho hai bạn".
Sophie có vẻ cảnh giác: "Một khoản hối lộ?".
"Ngoại giao sáng tạo mà. Các sân bay hành chính thường có chút chiếu cố. Một nhân viên hải quan Anh sẽ đón chúng ta tại nhà chứa máy bay của tôi cũng được lên máy bay kiểm tra.
Thay vì cho phép anh ta lên, tôi sẽ bảo anh ta là tôi đi cùng một nữ danh nhân Pháp, cô ấy không muốn ai biết mình có mặt ở Anh - báo chí hay làm rùm beng, bạn biết đấy - và tôi sẽ tặng nhân viên đó món tiền boa hậu hĩnh này để cảm ơn về sự kín đáo của anh ta".
Langdon có vẻ ngạc nhiên: "Và người nhân viên hải quan sẽ nhận?".
"Không phải với bất kỳ ai, bình thường thì họ sẽ không nhận, nhưng tất cả những người này đều biết tôi. Tôi không phải là một người buôn vũ khí, lạy Chúa! Tôi được phong hiệp sĩ cơ mà". Teabing mỉm cười. "Tư cách thành viên Hoàng gia có đặc quyền của nó".
Lúc này, Rémy theo lối đi giữa các hàng ghế tiến lại gần, khẩu Heckler & Koch trong tay: "Thưa ngài, nhiệm vụ của tôi là gì?".
Teabing liếc nhìn người thân bộc: "Tôi cần anh ở lại trên máy bay với vị khách của chúng ta cho đến khi chúng tôi quay lại. Chúng tôi không thể kéo lê hắn đi theo khắp London được".
Sophie có vẻ cảnh giác: "Leigh. Tôi thực sự lo rằng cảnh sát Pháp sẽ tìm thấy chiếc máy bay của ngài trước khi chúng ta trở lại".
Teabing cười: "Phải, hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên của họ nếu họ lên máy bay và thấy Rémy".
Sophie có vẻ ngạc nhiên về thái độ xàm xỡ của ông: "Leigh, ngài đã vận chuyển một con tin bị trói qua biên giới quốc tế.
Điều này là nghiêm trọng đấy".
"Các luật sư của tôi cũng nghiêm túc" ông đưa mắt nhìn về hướng gã thầy tu ở sau máy bay. "Đồ súc vật này đột nhập vào nhà tôi và suýt giết tôi. Đó là sự thật và Rémy sẽ làm chứng".
"Nhưng ông đã trói anh ta và chở anh ta bằng máy bay tới London?", Langdon nói.
Teabing giơ bàn tay phải lên và phác một cử chỉ như khi thề ở toà án: "Thưa quý tòa, xin hãy tha thứ cho một hiệp sĩ già lập dị về định kiến ngu ngốc của ông ta đối với hệ thống toà án của Anh. Tôi nhận ra là tôi nên gọi đến các nhà chức trách Pháp, nhưng tôi là một kẻ hợm mình và không tin những người Pháp laise-farei(1) đó. Có thể xử một cách đúng đắn. Người đàn ông này đã suýt giết tôi. Và tôi đã có một quyết định liều lĩnh là bắt người hầu của tôi phải giúp tôi đưa hắn ta về Anh, nhưng tại lúc đó tôi đang chịu áp lực quá lớn. Mea culpa. Mea culpai"(2).
Langdon có vẻ hoài nghi: "Leigh, từ miệng ngài nói ra, điều ấy có thể cho qua".
"Thưa ngài?" Viên phi công gọi. "Đài không lưu vừa mới gọi. Họ có vấn đề gì đó về việc duy tu bảo dưỡng ở gần nhà chứa máy bay của chúng ta và yêu cầu tôi đưa máy bay thẳng tới chỗ ga hành khách của sân bay thay vì đến thẳng nhà chứa máy bay".
Teabing thường xuyên đã bay tới Biggin Hill trong hơn một thập kỷ nay và đây là lần đầu tiên có chuyện như thế này. "Họ có nói vấn đề đó là gì không?".
"Người kiểm soát không lưu rất mơ hồ. Điều gì đó về việc khí ga rò rỉ ở trạm bơm xăng thì phải? Họ yêu cầu tôi đỗ phía trước ga hành khách và giữ mọi nguời ở trên máy bay cho đến khi có lệnh khác. Đề phòng về an toàn đấy ạ. Chúng ta không đuợc ra khỏi máy bay cho đến khi chúng ta được những người có thẩm quyền ở sân bay cho phép".
Teabing nghi ngờ. Chắc phải là một vụ rò rỉ khí ga kinh thiên động địa. Trạm bơm xăng cách nhà chứa máy bay của ông những nửa dặm cơ mà.
Rémy cũng có vẻ lo lắng: "Thưa ngài, chuyện này nghe rất trái lẽ thường".
Teabing quay sang Sophie và Langdon: "Các bạn của tôi, tôi có mối nghi ngờ chẳng thú vị gì là chúng ta sắp được cả một uỷ ban đón tiếp".
Langdon khẽ thở dài: "Tôi đoán Fache vẫn nghĩ tôi là đối tượng của ông ta".
"Hoặc là như vậy", Sophie nói, "hoặc là ông ấy dấn sâu quá mức vào vụ này để có thể thú nhận sai lầm của mình".
Teabing không lắng nghe. Bất kể sự cố chấp của Fache thì vẫn cần phải hành động gấp. Không được rời mắt khỏi mục tiêu cuối cùng. Chén Thánh. Chúng ta đã ở rất gần. Bên dưới họ, càng máy bay đã hạ xuống với một tiếng cạch.
"Leigh", Langdon nói, giọng nghe đầy hối hận. "Tôi nên tự nộp mình và tìm cách giải quyết việc này theo pháp luật. Để ông đứng ngoài toàn bộ chuyện này".
"Ôi trời, Robert!" Teabing khoát tay. "Anh thực sự nghĩ là họ sẽ thả những người còn lại trong chúng ta sao? Tôi vừa mới vận chuyển các bạn trái phép. Cô Neveu giúp anh trốn thoát từ Louvre, và chúng ta có một gã bị trói ở đằng sau máy bay. Quả thật, tất cả chúng ta cùng hội cùng thuyền mà".
"Có thể có một phi cảng khác?". Sophie nói.
Teabing lắc đầu: "Nếu bây giờ chúng ta đổi hướng thì vào lúc chúng ta được phép hạ cánh xuống bất cứ nơi nào khác, đoàn chào mừng chúng ta sẽ bao gồm cả xe tăng quân sự!".
Sophie ngồi phịch xuống.
Teabing cảm thấy rằng nếu họ có cơ may trì hoãn việc đối mặt với các nhà chức trách Anh đủ lâu để tìm Chén Thánh thì phải hành động táo bạo hơn. "Chờ tôi một phút", ông nói và đi khập khiễng về phía buồng lái.
"Ông đang làm gì vậy?". Langdon hỏi.
"Họp bàn chuyện mua bán", Teabing nói, tự hỏi không biết phải chi bao nhiêu để thuyết phục phi công của mình thực hiện một chiêu thức hết sức bất thường.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: làm việc kiểu buông xuôi, để mặc.
(2) Tiếng Latin trong nguyên bản: Lỗi tại tôi, một câu thường trờ đi trở lại trong những bài kinh sám hối.
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853