Chiếc Fiat không có gì nổi bật rời Castel Gandoflo ngoằn ngoèo đi xuống, qua đồi Alban Hill vào thung lũng phía dưới.
Ngồi ở ghế sau, giám mục Aringarosa mỉm cười, cảm thấy sức nặng của những tờ trái phiếu trong chiếc cặp số trên lòng mình và tự hỏi còn bao lâu nữa ông và Thầy Giáo mới có thể tiến hành cuộc trao đổi.
Hai mươi triệu Euro.
Món tiền này sẽ mang lại cho Aringarosa thứ quyền lực có giá trị hơn thế nhiều.
Trong khi chiếc xe lao nhanh trên đường về Roma, Aringarosa lại một lần nữa nhận thấy mình đang băn khoăn tự hỏi tại sao Thầy Giáo vẫn chưa liên lạc với ông. Rút máy điện thoại di động ra khỏi túi áo chùng thầy tu, ông kiểm tra tín hiệu sóng. Cực yếu.
"Điện thoại di động ở trên này bập bõm lắm", người lái xe nói, liếc nhìn ông qua kính chiếu hậu. "Sau khoảng năm phút nữa, ra khỏi vùng núi và dịch vụ sẽ tốt hơn".
"Cảm ơn". Aringarosa bỗng cảm thấy lo. Không phủ sóng dưới vùng núi sao? Có lẽ Thầy Giáo đang cố gọi cho ông lúc này.
Cũng có thể là chuyện gì đó kinh khủng đã xảy ra.
Rất nhanh, Aringarosa kiểm tra hộp thư thoại. Chẳng có gì hết. Rồi một lần nữa, ông nhận ra rằng Thầy Giáo ắt không bao giờ để lại một tin nhắn ghi âm, ông ta là một người cực kỳ cẩn trọng trong giao tiếp. Không ai hiểu rõ hơn Thầy Giáo nguy cơ của việc nói chẻ hoe trong cái thế giới hiện đại này. Máy nghe trộm điện tử đã có một vai trò chính yếu trong cách thức ông ta thu thập cả mớ thông tin bí mật dáng kinh ngạc đến thế.
Vì lý do ấy! Ông ta càng thận trọng thêm nữa!
Khốn nỗi, những thủ tục đề phòng của Thầy Giáo lại bao gồm cả việc từ chối không cho giám mục Aringarosa một số điện thoại liên lạc nào. Chỉ mình tôi chủ động liên hệ thôi, Thầy Giáo đã thông báo với giám mục như vậy. Cho nên, hãy giữ máy điện thoại gần ngài. Bây giờ, khi giám mục Aringarosa đã nhận ra rằng điện thoại của ông có thể không thông suốt, ông sợ Thầy Giáo có thể hiểu lầm nếu ông ta liên tục gọi mà không nhận được câu trả lời.
Ông ta sẽ nghĩ là có gih không ổn.
Hoặc là mình đã không thể lấy được hối phiếu.
Giám mục toát mồ hôi.
Hoặc tồi tệ hơn… rằng mình đã lấy được tiền và bỏ chạy! (nguồn vnthuquan.net)
Chương 51
Thậm chí với vận tốc khiêm tốn 60km/h, cái giảm xóc treo lủng lẳng phía trước của chiếc xe tải bọc thép vẫn quẹt cành cạch vào mặt đường ngoại ô vắng tanh, làm bắn những tia lửa lên mui xe. Chúng ta phải ra khỏi con đường này, Langdon nghĩ bụng. Ông thậm chí không rõ họ đang đi về đâu nữa. Chiếc đèn pha duy nhất còn sáng bị va lệch tâm, giờ đây chiếu xiên xẹo vào cánh rừng ven đường cao tốc. Rõ ràng, tính từ bọc thép trong cụm từ "xe tải bọc thép" chỉ đúng với thùng chứa hàng chứ đâu có đúng với phần đằng trước.
Sophie ngồi ở ghế hành khách, thẫn thờ nhìn chiếc hộp gỗ.
"Cô vẫn ổn đấy chứ?" Langdon hỏi.
Sophie có vẻ run: "Anh có tin ông ta không?".
"Về chuyện có ba người nữa bị sát hại ư? Tôi hoàn toàn tin. Điều đó giải đáp cho một loạt vấn đề - tình trạng tuyệt vọng của ông cô khi muốn truyền lại viên đá đỉnh vòm cũng như chuyện tay cảnh sát Fache đang ráo riết săn lùng tôi".
"Không, tôi muốn nói về việc Vernet cố gắng bảo vệ ngân hàng của ông ta".
Langdon liếc nhìn: "Đối lập với…?".
"Ông ta muốn chiếm lấy viên đá đỉnh vòm cho riêng mình".
Langdon trước đó thậm chí không hề tính đến chuyện đó:
"Làm sao ông ta có thể biết chiếc hộp chứa cái gì?".
"Thì ngân hàng của ông ta cất giữ chiếc hộp này mà. Ông ta biết ông tôi. Có thể ông ta biết nhiều điều đấy. Có lẽ ông ta đã quyết định đoạt lấy Chén Thánh cho riêng mình".
Langdon lắc đầu. Vernet không thể là loại người này. "Theo tôi, chỉ có hai lí do khiến nhiều người đeo đuổi việc tìm kiếm Chén Thánh. Một là họ rất ngây thơ và tin rằng họ đang kiếm tìm cái Chén của Chúa Jesus đã bao lâu mất tích…".
"Còn lí do kia".
"Hoặc là họ biết sự thật và bị chính sự thật đó đe doạ. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhiều nhóm đã tìm cách huỷ Chén Thánh".
Sự im lặng giữa hai người càng làm nổi bật tiếng chiếc giảm sóc quệt trên mặt đường. Họ đã đi được vài cây số, và trong khi quan sát những tia lửa bắn tóe trước đầu xe, Langdon tự hỏi liệu điều đó có nguy hiểm không. Đằng nào cũng vậy, nếu họ đi ngang một chiếc xe khác, điều này chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý. Langdon bèn quyết định.
"Để tôi xem có thể nắn lại chiếc giảm sóc được không".
Tạt vào vệ đường, ông đỗ xe lại.
Cuối cùng, yên tĩnh đã trở lại.
Khi Langdon bước về phía đầu xe, ông cảm thấy mình lanh lẹ một cách đáng ngạc nhiên. Việc phải đối diện với một nòng súng khác nữa đêm nay đã tiếp cho ông một hơi thở mới. Ông hít mạnh không khí trong lành ban đêm và cố gắng tập trung trí lực minh mẫn. Kèm theo tình thế nghiêm trọng của kẻ bị săn đuổi, Langdon bắt đầu cảm thấy gánh nặng của trách nhiệm, cái viễn cảnh là ông và Sophie có thể đang thực sự nắm giữ một loạt chỉ dẫn mã hóa đưa tới một trong những bí mật bền lâu nhất của mọi thời.
Cứ như thể nhiệm vụ này vẫn chưa đủ nặng nề, giờ đây Langdon nhận ra rằng mọi khả năng tìm cách hoàn trả viên đá đỉnh vòm cho Tu viện Sion vừa bị tiêu tan. Tin có thêm ba vụ sát hại mang những ngụ ý khốc liệt. Tu viện Sion đã bị kẻ địch cài người vào. Họ đã bị phản. Rõ ràng hội kín này đã bị theo dõi hoặc là có nội ứng trong hàng ngũ. Điều đó giải thích tại sao Saunière lại trao viên đá đỉnh vòm cho Sophie và Langdon vốn là người ngoài tổ chức, những người mà ông biết rằng họ không thỏa hiệp. Chúng ta không dễ gì trả lại viên đá đỉnh vòm cho hội này được. Thậm chí nếu Langdon biết cách tìm ra được một thành viên của Tu viện Sion thì cũng rất có thể người đứng ra nhận viên đá đỉnh vòm lại chính là kẻ thù. Lúc này, chí ít viên đá đỉnh vòm cũng ở trong tay Langdon và Sophie cho dù họ có muốn hay không.
Phía đầu chiếc xe tải trông còn tệ hơn cả trong tưởng tượng của Langdon. Chiếc đèn pha bên trái đã tắt ngúm, còn chiếc bên phải nom như một con ngươi long ra khỏi hốc mắt.
Langdon gắn thẳng chiếc đèn lại nhưng nó lại long ra. Điều đáng mừng duy nhất là chiếc giảm sóc đằng trước đã tả tơi, gần rụng. Langdon đá vào đó một cái thật mạnh và cảm thấy ông có thể bẻ nó rời ra hoàn toàn.
Trong khi ông liên tục đá vào thanh sắt cong queo, Langdon nhớ lại câu chuyện trước đó với Sophie. "Ông tôi đã để lại một tin nhắn thông qua chiếc máy điện thoại di động". Sophie tiết lộ. "Ông bảo rằng ông cần phải kể cho tôi nghe về bí mật của gia đình".
Khi ấy, điều đó chẳng có nghĩa gì, nhưng giờ đây khi biết Tu viện Sion cũng có liên quan, Langdon cảm thấy nổi lên một khả năng mới đáng kinh ngạc.
Chiếc giảm sóc đột nhiên gẫy đánh cách. Langdon ngừng lại để thở. Ít ra thì chiếc xe cũng không còn giống pháo hoa ngày mồng bốn tháng bảy (1) nữa. Ông túm lấy chiếc giảm sóc và kéo nó quắng vào rừng cho khuất mắt. Ông tự hỏi sau đây họ sẽ đi đâu. Họ không biết làm thế nào để mở hộp mật mã hoặc tại sao Saunière lại giao cho họ viên đá đỉnh vòm. Khốn thay, sự sống còn của họ trong đêm nay dường như lại phụ thuộc vào việc tìm ra câu trả lời cho chính những câu hỏi trên. Chúng ta cần có sự giúp đỡ, Langdon quyết định. "Một sự giúp đỡ mang tính chuyên môn.
Trong thế giới của Chén Thánh và trong Tu viện Sion, sự giúp đỡ ấy chỉ có thể tìm thấy ở một người duy nhất. Tất nhiên, thách thức ở đây sẽ là làm sao thuyết phục được Sophie về ý tưởng ấy.
Bên trong chiếc xe bọc thép, trong khi chờ Langdon quay trở lại, Sophie cảm thấy sức nặng của chiếc hộp trên lòng mình và cô hậm hực. Tại sao ông lại giao cái này cho mình? Cô hoàn toàn không biết phải làm gì với nó. Suy nghĩ đi, Sophie. Hãy sử dụng cái đầu của mày. Ông mày đang cố nói điều gì với mày đấy!
Mở chiếc hộp lớn ra, cô xem xét các đĩa quay của hộp mật mã. Một trắc nghiệm để chứng minh giá trị. Cô cảm thấy bàn tay của ông mình đang làm việc. Viên đá đỉnh vòm là một bản đồ mà chỉ những người xứng đáng mới lần theo được. Nghe đặc khẩu khí của ông cô.
Nâng hộp mật mã ra khỏi chiếc hộp lớn, Sophie đặt những ngón tay của mình lên trên những đĩa quay. Năm chữ cái. Cô quay lần lượt từng chữ cái một. Cơ cấu hoạt động trơn tru. Cô sắp những đĩa sao cho các chữ cái cô đã chọn thẳng hàng giữa hai mũi tên bằng đồng ở mỗi đầu hình trụ. Những đĩa quay lúc này chắp vần thành một từ năm chữ cái mà Sophie biết rằng nó quá hiển nhiên đến mức phi lí.
G-R-A-I-L(2).
Cô nhẹ nhàng cầm hai đầu hình trụ rồi kéo nó để từ từ gây ra một áp suất. Hộp mật mã vẫn không nhúc nhích gì cả. Cô nghe thấy dấm chảy òng ọc phía trong và ngửng kéo. Rồi cô lại thử một từ khác.
V-I-N-C-I
Vẫn chẳng thấy chuyển động gì.
V-O-U-T-E (3)
Chẳng thấy gì. Hộp mật mã vẫn đóng chặt.
Chau mày, cô đặt nó trở vào trong chiếc hộp gỗ hồng rồi đậy nắp lại. Phóng mắt ra ngoài nhìn Langdon, Sophie cảm thấy biết ơn trời đã cho Langdon ở bên cô đêm nay. P.S. Hãy tìm Robert Langdon Langdon. Suy lý của ông cô nhằm kéo Langdon vào cuộc giờ đây đã trở nên rõ ràng. Sophie không được trang bị đầy đủ kiến thức để hiểu những ý đồ của ông, vậy nên ông đã chỉ định Robert Langdon làm người hướng dẫn cho cô. Một vị thầy để kèm cặp cô. Không may cho Langdon, đêm nay hoá ra ông còn Có trách nhiệm hơn cả một người thầy. Ông đã trở thành cái đích săn lùng của tay cảnh sát Bezu Fache…và một lực lượng vô hình đang ráo riết muốn sở hữu Chén Thánh. Bất kể Chén Thánh hóa ra là cái gì.
Sophie tự hỏi liệu việc tìm ra Chén Thánh có bõ để cô liều mạng sống của mình hay không.
Khi chiếc xe tải lại tăng tốc, Langdon lấy làm hài lòng thấy nó chạy êm ru: "Cô có biết đường đến Versailles không?".
Sophie đưa mắt nhìn: "Anh muổn đi ngắm cảnh?".
"Không, tôi có một kế hoạch. Tôi biết một sử gia chuyên nghiên cứu về tôn giáo, ông ta sống gần vùng Versailles. Tôi không nhớ chính xác nơi ông ấy sống. Nhưng chúng ta có thể tìm ra. Tôi đã đến thăm điền trang của ông ấy một vài lần.
Tên ông ấy là Leigh Teabing. Trước đây ông từng là một sử gia thuộc Hoàng gia Anh".
"Và ông ta sống ở Paris?".
"Đam mê cả đời của Teabing là Chén Thánh. Khi những xì xào về viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion nổi lên khoảng mười lăm năm về trước, ông đã chuyển tới Pháp nhằm tìm kiếm trong các nhà thờ với hi vọng sẽ tìm thấy nó. Ông đã viết một vài cuốn sách về viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion và Chén Thánh. Ông có thể giúp chúng ta mở được hộp mật mã và gợi ý cho chúng ta nên làm gì với nó".
Mắt Sophie tỏ vẻ thận trọng: "Anh có thể tin ông ta sao?".
"Về mặt nào? Về việc ông ta sẽ không đánh cắp thông tin?".
"Và không nộp chúng ta cho cảnh sát".
"Tôi không có ý định nói cho ông ấy biết cảnh sát đang truy lùng chúng ta. Tôi hy vọng ông ấy sẽ cho chúng ta tá túc cho đến khi chúng ta làm rõ mọi chuyện".
"Robert này, anh có nghĩ tới việc mọi đài truyền hình trên đất Pháp có thể đã sẵn sàng phát đi hình ảnh của chúng ta hay không? Bezu Fache luôn biết cách lợi dụng các phương tiện truyền thông. Hắn sẽ không để chúng ta tự do đi hết nơi này đến nơi khác mà không bị phát hiện".
"Tuyệt vời, Langdon nghĩ bụng. Cuộc ra mắt của mình trên Truyền hình Pháp sẽ mang tiêu đề "Kẻ bị săn lùng ráo riết nhất Paris". Chí ít Jonas Faukman cũng sẽ hài lòng: mỗi khi Langdon được đưa tin trên báo đài, số lượng sách bán ra của ông ta đều tăng vọt lên.
"Ông ta có phải là một người bạn tốt không?". Sophie hỏi.
Langdon không tin Teabing là người ham theo dõi tivi, nhất là vào giờ này, nhưng dẫu sao câu hỏi đó của Sophie cũng đáng cân nhắc. Linh tính mách bảo Langdon rằng Teabing là một người hoàn toàn đáng tin cậy. Một bến đậu an toàn lí tưởng.
Xét hoàn cảnh cụ thể, Teabing có thể sẽ vượt lên bản thân để giúp họ đến mức tối đa có thể. Không chỉ vì ông ta chịu ơn Langdon mà còn vì ông là một chuyên gia nghiên cứu về Chén Thánh, mà Sophie thì khẳng định rằng ông cô là Đại sư của Tu viện Sion. Nếu Teabing nghe thấy điều này, ông ta ắt thèm nhỏ dãi muốn được giúp họ tháo gỡ chuyện này.
"Teabing có thể là một đồng minh đầy quyền năng", Langdon nói. "Điều đó còn phụ thuộc vào việc cô muôn kể cho ông ta nghe những gì".
"Fache có thể sẽ treo thưởng bằng tiền".
Langdon cười: "Hãy tin tôi, tiền là thứ chót hạng mà tay này cần đến". Leigh Teabing giàu theo cái cách giàu của những nước nhỏ. Là hậu duệ của quận công đầu tiên của dòng họ Lancaster lại Vương quốc Anh, Teabing nhận được của cải theo cái cách cổ xưa - thừa kế. Điền trang của ông ta ở vùng ngoại thành Paris là một cung điện thế kỉ XVII với hai con hồ riêng.
Langdon gặp Teabing lần đầu tiên cách đây một vài năm thông qua Đài phát thanh Anh quốc BBC. Teabing đã tiếp cận BBC với đề nghị làm một bộ phim tài liệu lịch sử, trong đó, ông sẽ giới thiệu lịch sử đầy xung đột của Chén Thánh với khán giả xem truyền hình. Những nhà sản xuất chương trình của BBC rất thích giả thuyết sốt dẻo của Teabing, cũng như công việc nghiên cứu uy tín và năng lực của ông, nhưng người ta lo ngại rằng khái niệm này gây sốc và khó nuốt đến mức, chung cuộc, nó có thể làm hoen ố danh tiếng của đài với tư cách là một cơ quan báo chí có chất lượng cao. Theo gợi ý của Teabing, hãng BBC đã giải tỏa được nỗi sợ mất uy tín ấy bằng cách thỉnh cầu một số nhà sử học được khắp thế giới kính nể tham gia vào ba đoạn phim đặc biệt, tất cả họ đều xác định tính chất lạ kì của bí mật về Chén Thánh, dựa trên nghiên cứu của riêng từng người.
Langdon ở trong số những nhân vật được lựa chọn ấy.
Đài BBC đã đưa Langdon đến điền trang của Teabing ở Paris bằng máy bay để quay phim. Langdon ngồi trước máy quay trong phòng khách sang trọng của Teabing và tham gia vào câu chuyện của ông ta, thừa nhận thái độ hoài nghi ban đầu của mình khi nghe câu chuyện dị bản về Chén Thánh, rồi miêu tả những năm nghiên cứu đã thuyết phục mình như thế nào để đi đến tin rằng câu chuyện đó là thật. Cuối cùng, Langdon trình bày một vài trong số những nghiên cứu của riêng mình - một loạt các mối liên hệ kí tượng học hỗ trợ mạnh mẽ cho những giả thuyết gây tranh cãi ấy.
Khi chương trình phát ở Anh quốc, bất chấp thành phần tham dự và những bằng chứng thông qua các tài liệu xác thực, giả thuyết này đã đụng chạm mạnh với nếp tư duy Cơ đốc phổ biến đến nỗi lập tức vấp phải một cơn bão tố thù địch tẩy chay.
Chương trình này chưa bao giờ được phát ở Mỹ, nhưng ảnh hưởng của nó lại vang vọng khắp cả Đại Tây Dương. Ít lâu sau, Langdon nhận được một tấm thiếp từ một người bạn cũ - vài chữ đơn giản: "Et tu, Robert?" (Cả anh sao, Robert?)
"Robert này" Sophi hỏi "Anh chắc chắn là chúng ta có thể tin người này chứ?".
"Tôi hoàn toàn chắc chắn. Chúng tôi là những đồng nghiệp, ông ta không cần tiền đâu và tình cờ tôi biết được rằng ông ấy rất khinh thường giới cầm quyền Pháp. Chính phủ Pháp đã đánh thuế ông đến mức phi lý bởi vì ông đã mua một điểm mốc lịch sử (4). Ông ấy sẽ không vội vã hợp tác với Fache đâu".
Sophie nhìn sâu vào con đường tối đen như mực: "Nếu chúng ta tìm gặp ông ta, anh muốn cho ông ta biết đến đâu?".
Langdon có vẻ chẳng lo lắng chút nào: "Hãy tin tôi đi, Leigh Teabing là người am hiểu tường tận về Tu viện Sion và Chén Thánh hơn bất kì ai trên đời".
Sophie nhìn Langdon: "Hơn cả ông tôi sao?".
"Ý của tôi là anh ấy am hiểu chuyện này hơn bất kì ai ở ngoài hội kín đó". "Làm sao anh có thể biết được Teabing không phải là một thành viên của tổ chức này?".
Teabing đã bỏ cả đời để tìm cách phổ biến sự thật về chiếc Chén Thánh. Trong khi lời thề của Tu viện Sion là giấu kín bản chất thật sự của Chén Thánh".
"Theo tôi, điều đó nghe như một sự xung đột về lợi ích vậy".
Langdon hiểu những lo lắng của cô. Saunière đã trực tiếp trao lại cho cô hộp mật mã, mặc dù cô chẳng biết nó đựng gì hoặc phải làm gì với nó, nên cô rất ngần ngại khi phải dính dáng đến một người hoàn toàn xa lạ. Trong việc đánh giá những thông tin còn bí ẩn, bản năng bao giờ cũng là một phương pháp có hiệu quả. "Chúng ta chưa cần nói ngay với Teabing về viên đá đỉnh vòm. Hoặc thậm chí không nói gì hết.
Ông ấy sẽ cho chúng ta một nơi trú ẩn, cả thời gian để suy ngẫm và có thể, khi chúng ta nói chuyện với ông ấy về Chén Thánh, biết đâu cô sẽ vỡ lẽ ra tại sao ông cô lại trao cho cô viên đá đỉnh vòm".
Cho chúng ta chứ", Sophie sửa lại.
Langdon cảm thấy một niềm tự hào khiêm tốn và một lần nữa ông lại tự hỏi tại sao ông Saunière cố ý gán ông vào chuyện này.
"Anh biết ít nhiều về nơi ở của Teabing chứ?".
"Điền trang của ông ấy được gọi là Château Villette".
Sophie quay lại với vẻ không tin: "Chính Château Villette sao?".
"Đúng vậy".
"Bạn oách đấy".
"Cô biết điền trang ấy?".
"Tôi đã đi qua đó. Nó nằm trong một vùng toàn các lâu đài. Cách đây hai mươi phút lái xe".
Langdon cau mày: "Xa đến vậy sao?".
"Đúng thế, ngần ấy thời gian đủ cho anh nói cho tôi biết Chén Thánh thực ra là cái gì".
Langdon dừng lại: "Tôi sẽ kể cho cô nghe tại nhà Teabing. Ông ta và tôi chuyên về những lĩnh vực khác nhau của huyền thoại này, cho nên, nghe cả hai chúng tôi, cô sẽ nắm được đầy đủ câu chuyện về Chén Thánh". Langdon mỉm cười. "Ngoài ra, Chén Thánh là cả cuộc đời Teabing, nên nghe Leigh Teabing kể chuyện Chén Thánh cũng giống như nghe thuyết tương đối từ chính miệng Einstein".
Hy vọng Leigh không phản đối khách đến vào lúc đêm khuya".
Nói cho chính xác, đó đích thị là ngài Leigh. Langdon chỉ mắc lầm lẫn này có một lần. "Teabing quả là một tính cách đặc biệt. Nữ hoàng đã phong tước hiệu Hiệp sĩ cho ông cách đây mấy năm sau khi ông soạn một bộ lịch sử kì vĩ về Ngôi nhà ở xứ York".
Sophie nhìn Langdon: "Anh đang đùa, phải không? Chúng ta sắp tới thăm một Hiệp sĩ ư?".
Langdon mỉm cười vụng về: "Sophie ạ, chúng ta đang đi tìm Chén Thánh. Còn ai có thể giúp chúng ta đắc lực hơn một hiệp sĩ?". Chú thích: (1) Quốc khánh Mỹ. (2) Tiếng Anh: Chén Thánh (3) Tiếng Pháp: viên đá đỉnh vòm. (4) Điền trang của ông là một cung điện thế kỷ XVII. (nguồn vnthuquan.net)
Khu đất rộng 185 mẫu của Château Villette nằm ở vị trí 25' tây bắc Paris trong vùng ngoại ô Versailles. Được thiết kế bởi kiến trúc sư Francois Mansart cho Bá tước Aufflay vào năm 1668, đây là một trong những lâu đài lịch sử quan trọng nhất ở Paris. Hoàn chỉnh với hai con hổ hình chữ nhật và những khu vườn do kiến trúc sư Le Nôtre thiết kế, Château Villette là một toà lâu đài khiêm nhường hơn là uy nghi lộng lẫy. Người ta âu yếm mệnh danh cho nó là Petite Versailles- Versailles nhỏ.
Langdon hãm phanh và chiếc xe tải bọc thép rùng mình dừng lại ở chân đường xe vào lâu đài dài tới một dặm. Bên kia chiếc cổng bảo vệ uy nghi, tòa dinh thự của Ngài Leigh Teabing nổi lên xa xa trên một bãi cỏ. Tấm biển trên cổng ghi bằng tiếng Anh: PRIVATE PROPERTY. NO TRESPASSING (Tài sản tư nhân. Không được phép xâm phạm).
Như để tuyên bố rằng tự bản thân nhà mình là một đảo Anh quốc trên đất Pháp, Teabing không chỉ trương biển bằng tiếng Anh, mà còn cho đặt hệ thống liên lạc từ cổng vào ở phía bên phải của chiếc xe tải - ở tất cả các quốc gia châu Âu phía này là phía ghế hành khách, ngoại trừ nước Anh.
Sophie nhìn hệ thống liên lạc đặt sai chỗ bằng con mắt lạ lùng:
"Nếu như ai đó tới đây mà không chở hành khách thì sao?".
"Đừng hỏi", Langdon có trải nghiệm này với Teabing, "Ông ấy thích mọi thứ vẫn theo cách bên quê nhà".
Sophie hạ cửa xe bên phía cô: "Anh nên nói thì hơn".
Langdon xoay người đổi tư thế và vươn mình ra qua Sophie để bấm nút trên hệ thống liên lạc: Thoảng một mùi nước hoa quyến rũ từ Sophie phả vào mũi ông và ông nhận ra họ đang kề sát bên nhau biết bao. Ông vẫn đợi trong tư thế ngả người bất tiện ấy, trong khi chuông điện thoại bắt đầu reo trên chiếc micrô nhỏ.
Cuối cùng thì hệ thống liên lạc cũng kêu lạo xạo và một giọng Pháp cáu kỉnh lên tiếng: "Château Villette đây. Ai đang gọi đấy?".
"Tôi là Robert Langdon". Langdon nói to, vẫn xoài người trên lòng Sophie, "Tôi là một người bạn của ngài Leigh Teabing.
Tôi cần sự giúp đở của ông ấy".
Ông chủ tôi đang ngủ. Cũng như tôi đây. Ông có công chuyện gì với ông chủ tôi?".
"Đây là chuyện riêng. Một vấn đề ông ấy đặc biệt quan tâm".
"Vậy thì tôi chắc chắn rằng ông chủ sẽ vui lòng tiếp ngài vào sáng mai!".
Langdon xoay người đi một chút: "Chuyện này rất quan trọng đấy".
"Giấc ngủ của ngài Leigh cũng rất quan trọng. Nếu ông là bạn, thì hắn phải biết rằng ngài không được khoẻ chứ".
Ngài Leigh Teabing bị bại liệt từ hồi nhỏ, và bây giờ vẫn phải đeo nẹp chân và dùng nạng để đi lại, nhưng Langdon thấy ông vẫn tràn trề nhựa sống trong lần gặp trước đến nỗi khó có thể coi đó là một tật nguyền. "Làm ơn nói với ngài là tôi đã phát hiện được thông tin mới về Chén Thánh. Mà thông tin ấy không thể chờ đến sáng mai được".
Một quãng ngừng kéo dài.
Sophie và Langdon đợi, động cơ xe tải vẫn ì ầm chạy không tải.
Cả một phút trôi qua.
Cuối cùng ai đó lên tiếng: "Ôi ông bạn của tôi, tôi dám cá là anh vẫn đang theo giờ tiêu chuẩn ở Harvard", giọng nói mạnh mẽ và nhẹ nhàng.
Langdon toét miệng cười khi nhận ra chất giọng Anh đặc sệt ấy: "Leigh à, xin lỗi vì đã đánh thức ông vào cái giờ khiếm nhã này".
"Người giúp việc của tôi nói rằng không những anh đang ở Paris mà còn muốn tiết lộ thông tin về Chén Thánh nữa".
"Tôi nghĩ điều đó có thể lôi ông ra khỏi giường mà".
"Thì thế đấy".
"Liệu có cơ may là ông mở cửa tiếp một người bạn cũ không?".
"Những ai kiếm tìm sự thực thì còn hơn cả bạn bè. Họ là anh em ruột thịt".
Langdon đảo mắt nhìn Sophie, quá quen với cái thói thích diễn kịch của Teabing.
"Thực ra tôi sẽ mở cửa thôi", Teabing tuyên bố, "nhưng trước tiên tôi phải xác định tấm lòng chân thật của anh đã. Một bài kiểm tra sát hạch về danh dự đối với anh. Anh phải trả lời ba câu hỏi".
Langdon rên rỉ rồi thì thầm với Sophie: "Hãy chịu đựng cùng tôi nhé. Tôi đã nói trước rồi mà, ông ấy là một tính cách đặc biệt".
"Câu hỏi đầu tiên của anh đây", Teabing tuyên bố, giọng điệu như Hercule. "Tôi phải đãi anh cà phê hay trà?".
Langdon biết Teabing rất ghét cà phê Mỹ: "Trà đi. Hiệu Earl Grey".
"Rất tốt. Câu hỏi thứ hai. Anh dùng dường hay sữa?".
Langdon đắn đo.
"Sữa đi", Sophie thì thầm bên tai ông. "Tôi nghĩ người Anh sẽ dùng sữa".
"Sữa", Langdon nói.
Im lặng.
"Đường được không?".
Teabing không nói gì.
Khoan! Giờ thì Langdon đã nhớ ra thứ đồ uống đăng đắng mà ông đã được mời trong cuộc đến thăm lần thước và nhận ra câu hỏi này là một cái mẹo. "Chanh!" ông tuyên bố. "Earl Grey với chanh".
"Quả vậy". Giờ đây Teabing có vẻ rất khoái. "Và cuối cùng, tôi sẽ hỏi anh một câu nghiêm túc nhất". Teabing dừng lại rồi sau đó nói bằng một giọng rất trịnh trọng. "Lần cuối cùng một vận động viên chèo thuyền của trường Harvard thắng một tay đua của trường Oxford tại giải Henley là vào năm nào?".
Langdon không biết, nhưng ông có thể mường tượng ra lí do duy nhất câu hỏi được đưa ra: "Một trò hề lố bịch như thế chưa bao giờ xảy ra cả".
Cửa bật mở: "Trái tim anh chân thật, anh bạn của tôi. Anh có thể vào". (nguồn vnthuquan)
thay đổi nội dung bởi: abele, 26-09-2006 lúc 02:23 PM.
Ngài Vernet!" Người quản lí trực đêm của Ngân hàng ký thác Zurich nhẹ cả người khi nghe thấy giọng của ông chủ tịch ngân hàng trên điện thoại. "Ngài vừa đi đâu thế ạ? Cảnh sát đang ở đây. Tất cả mọi người đều đang đợi ngài!".
"Tôi đang gặp một rắc rối nhỏ", ông chủ tịch ngân hàng nói, giọng nghe có vẻ khổ sở. "Tôi cần ông giúp ngay".
Ngài đang gặp chuyện nghiêm trọng hơn một rắc rối nhỏ nhiều, người quản lí nghĩ thầm. Cảnh sát đã phong toả toàn bộ ngân hàng và đang doạ rằng đích thân tay đại uý của DCPJ sẽ đến với lệnh khám xét mà ngân hàng đòi hỏi phải xuất trình. "Tôi có thể giúp ngài bằng cách nào?".
"Chiếc xe tải bọc thép số ba. Tôi cần phải tìm ra nó".
Bối rối, người quản lí kiểm tra lịch phân phát hàng: "Nó vẫn còn ở đây mà. Tại bãi bốc dỡ tầng một".
"Thực tế là không phải vậy đâu. Hai kẻ bị cảnh sát truy lùng đã đánh cắp chiếc xe tải đó rồi".
"Cái gì? Làm sao chúng có thể lái xe ra khỏi ngân hàng được cơ chứ?".
"Tôi không thể nói chi tiết trên điện thoại được, nhưng chúng ta gặp một tình huống có thể cực kì bất lợi cho ngân hàng".
"Ngài cần tôi giúp gì đây?".
"Tôi muốn ông khởi động hệ thống phát tín hiệu khẩn cấp của chiếc xe tải đó".
Người quản lí trực đêm dõi mắt vào hộp điều khiển LoJack đằng kia căn phòng. Cũng giống như rất nhiều chiếc xe bọc thép khác, mỗi chiếc xe tải của ngân hàng đều được trang bị một hệ thống được kiểm soát từ ngân hàng thông qua máy radio, hệ thống này có thể được khởi động từ ngân hàng. Người quản lí mới chỉ sử dụng hệ thống báo động này có một lần, sau mỗi vụ cướp, và nó đã hoạt động một cách hoàn mĩ không thể chê vào đâu được - xác định vị trí của chiếc xe tải và tự động truyễn toạ độ về các nhà chức trách. Tuy nhiên, tối nay người quản lí lại có cảm giác rằng ông chủ tịch đang hy vọng mình sẽ hành động thận trọng hơn mọi ngày. "Thưa ngài, ngài phải hiểu rằng nếu tôi khởi động LoJack thì hệ thống báo động sẽ ngay lập tức thông báo cho các nhà chức trách biết chúng ta đang gặp rắc rối".
Vernet im lặng trong vài giây: "Phải, tôi hiểu. Dù sao cũng cứ làm thế đi. Xe tải số ba. Tôi sẽ giữ máy. Tôi cần biết vị trí chính xác của chiếc xe tải đó ngay sau khi ông xác định được".
"Tôi sẽ làm ngay, thưa ngài".
***
Ba mươi giây sau đó, cách ngân hàng bốn mươi cây số, một hệ thống báo động nhỏ xíu được giấu kín dưới gầm chiếc xe tải bọc thép bắt đầu khởi động nhấp nháy.
Chương 54
Khi Langdon và Sophie lái chiếc xe tải bọc thép trên đoạn đường ngoằn ngoèo giữa hai hàng cây dương về phía toà nhà, Sophie đã có thể cảm thấy cơ bắp mình thư giãn. Thật nhẹ người khi thoát ra khỏi đường giao thông công cộng, và cô nghĩ ít có nơi nào trú chân an toàn hơn là khu điền trang kín cổng cao tường của người nước ngoài vui tính này.
Họ rẽ vào đoạn đường xoáy vòng tròn và Château Villêtte hiện ra trước mắt họ ở phía bên phải. Tòa nhà cao ba tầng và dài ít nhất mười sáu mét, mặt tiền bằng đá xám, chiếu sáng bởi những trụ đèn chiếu đặt bên ngoài. Mặt tiền thô nháp này kề sát và tương phản với những khu vườn cảnh tinh khiết và hồ nước như gương soi.
Đèn trong nhà lúc này vừa bật lên.
Thay vì lái xe đến cửa trước, Langdon lái vào khu đỗ xe náu dưới những cây vạn niên thanh. "Chẳng tội gì phơi nó ra để từ ngoài đường cái cũng nhìn rõ mồn một", ông nói. "Hoặc là để Leigh thắc mắc tại sao mình lại đến trong chiếc xe bọc thép tả tơi thế này".
Sophie gật đầu: "Chúng ta làm gì với chiếc hộp mật mã này đây? Có lẽ không nên để nó lại trong xe, nhưng nếu Leigh nhìn thấy nó, chắc chắn ông ta sẽ muốn biết đó là cái gì".
"Đừng lo", Langdon nói, rồi cởi áo khoác khi bước ra khỏi chiếc xe. Ông cuộn chiếc áo khoác bằng vải tuýt quanh chiếc hộp rồi ôm bọc đó trong tay như ẵm trẻ vậy.
Sophie có vẻ vẫn hoài nghi: "Tinh vi".
"Teabing không bao giờ tự ra mở cửa, ông ta thích bước vào khi khách đã yên vị. Tôi sẽ tìm thấy một nơi nào đó bên trong nhà để cất giấu cái này trước ông ấy gặp chúng ta". Langdon dừng lại. "Thực ra, có lẽ tôi nên dặn cô điều này trước khi chúng ta nói chuyện với ông ấy. Ngài Leigh là người có khiếu hài hước mà mọi người thường cảm thấy hơi… kì dị một chút".
Sophie không tin là còn có điều gì đêm nay có thể khiến cô coi là kỳ dị.
Lối đi dẫn tới cửa vào chính được rải sỏi. Nó lượn tới một cánh cửa bằng gỗ sồi chạm trổ và gỗ anh đào, với một chiếc vòng gõ cửa bằng đồng to như quả bưởi. Trước khi Sophie nắm lấy chiếc vòng đó, cánh cửa đã mở tung ra từ bên trong.
Một người quản gia nghiêm trang và thanh lịch đứng trước mặt họ, chỉnh lại lần cuối chiếc cà vạt trắng và bộ tuxedo mà rõ ràng ông ta vừa mới mặc vào. Trông ông ta trạc ngũ tuần, nét mặt tao nhã và vẻ nghiêm khắc cho thấy rành là ông ta chẳng khoái gì sự hiện diện của họ ở đây.
"Ngài Leigh sẽ xuống ngay bây giờ", ông ta nói dõng dạc bằng chất giọng Pháp đặc sệt. "Ông chủ đang mặc trang phục.
Ông ấy không muốn tiếp đãi khách trong khi đang bận đồ ngủ.
Tôi có thể giúp ông cầm chiếc áo khoác được không?" Ông ta gườm gườm nhìn bọc vải tuýt trong tay Langdon.
"Cám ơn, tôi cầm được mà".
"Tất nhiên là được. Xin mời đi lối này".
Người quản gia dẫn họ đi xuyên qua một phòng chờ sang trọng lát cẩm thạch rồi vào một phòng khách trang trí tuyệt đẹp dưới ánh sáng êm dịu từ những ngọn đèn rủ tua kiểu Victoria. Không khí trong nhà có vẻ rất cổ xưa và cách nào đó lại có chất vương giả với mùi thuốc lá tẩu, mùi lá trà, mùi rượu vang Tây Ban Nha đang nấu và cả mùi đất của kiến trúc đá.
Trên nền bức tường phía xa, giữa hai bộ áo giáp sáng lấp lánh là một lò sưởi xù xì đủ lớn để nướng cả một con bò đực. Bước tới lò sưởi, người quản gia quỳ xuống và đánh một que diêm, Châm vào mớ củi gỗ sồi đã xếp sẵn và nhóm lò lên. Một ngọn lửa nhanh chóng bùng lên lách tách.
Người quản gia đứng lên và vuốt phăng chiếc áo vét của mình: "Ông chủ tôi đề nghị quí khách cứ tự nhiên như ở nhà". Nói rồi, ông đi khỏi, để Langdon và Sophie ở lạỉ một mình.
Sophie phân vân không biết nên ngồi lên thứ gì trong số những đồ cổ kê cạnh lò sưởi - chiếc đivăng nhung thời Phục hưng, chiếc xích đu hình móng đạỉ bàng hay là đôi ghế nguyện bằng đá nom như vừa được khuân ra từ một điện thờ Byzantine nào đó.
Langdon lôi hộp mật mã ra khỏi chiếc áo khoác, đoạn tiến tới chiếc đivăng nhung kia và luồn chiếc hộp gỗ xuống gầm đivăng, khuất hẳn tầm nhìn. Rồi rũ mạnh chiếc áo, ông mặc nó trở lại, vuốt phẳng ve áo và vừa mỉm cười với Sophie vừa ngồi ngay lên chỗ vừa cất giấu kho báu. Chiếc đi văng này đây, Sophie nghĩ bụng rồi ngồi xuống bên cạnh Langdon.
Trong khi đăm đăm nhìn ngọn lửa đang to dần, tận hưởng hơi ấm toả ra, Sophie có cảm giác ông cô ắt rất thích căn phòng này. Ván lát tường bằng gỗ màu đen được trang trí bằng những bức hoạ của các bậc thầy thời xưa, trong số đó cô nhận ra một bức Poussin - người hoạ sĩ ưa thích thứ hai của ông cô. Trên mặt lò sưởi, một bức tượng bán thân nữ thần Isis đang quan sát toàn bộ căn phòng.
Ngay sát dưới nữ thần Ai Cập, ở bên trong lò sưởi, có hai máng xối nước hình đầu thú được dùng làm vỉ lò, miệng của chúng há hốc để lộ ra cổ họng rỗng toác đầy đe doạ. Hồi bé, những chiếc máng xối nước hình thú như vậy bao giờ cũng khiến cho Sophie hoảng sợ, cho mãi tới khi ông cô chữa cho cô khỏi cảm giác sợ hãi ấy bằng cách đưa cô bé lên nóc Nhà thờ Đức Bà trong một cơn mưa giông. "Công chúa, cháu hãy nhìn vào những con vật ngốc nghếch này", nói rồi ông chỉ về phía những máng xối nước mưa hình thú với những cái miệng đang phun nước tung toé kia. "Cháu có nghe thấy cái tiếng ngồ ngộ trong cuống họng chúng không?". Sophie gật gật đầu, rồi mỉm cười khi nghe thấy tiếng nước chảy ồng ộc trong cổ họng của những con thú ấy. "Bọn chúng đang xúc miệng đấy", ông nói với cô bé. "Ôi những con thú biết xúc miệng - Cargariser!" Và đó cũng chính vì thế mà người ta đặt những cái tên thật ngớ ngẩn cho những con thú ấy.
Từ đó Sophie không bao giờ còn sợ chúng nữa.
Kí ức thân yêu ấy khiến Sophie cảm thấy quặn đau khi thực tế nghiệt ngã của vụ giết người lại bóp chặt tlm cô. Ông đã ra đi rồi. Cô hình dung hộp mật mã ở dưới đivăng và tự hỏi không biết Leigh Teabing có cách nào để mở nó hay không. Hay là ta cứ hỏi thẳng ông ấy. Lời trăng trối của ông cô đã dặn cô tìm Robert Langdon. Ông chẳng nói gì về chuyện kéo thêm ai khác vào cuộc. Chúng ta cần có một nơi để trốn. Sophie tự nhủ và quyết định sẽ tin tưởng vào nhận định của Robert.
"Ngài Robert", một giọng nói oang oang đâu đó phía sau họ, "Tôi thấy là ngài đi cùng với một thiếu nữ".
Langdon đứng lên. Sophie cũng bật dậy. Giọng nói ấy vọng xuống từ đầu cầu thang vòng cung, uốn khúc lên tầng hai chìm trong bóng tối. Trên đầu cầu thang, một hình người chuyển động trong bóng tối, chỉ thấy được vóc dáng mà thôi.
"Xin chào", Langdon nói vọng lên, "Ngài Leigh, tôi xin giới thiệu đây là cô Sophie Neveu".
"Rất hân hạnh", Teabing hiện ra dưới ánh đèn.
"Cảm ơn ngài đã tiếp chúng tôi", Sophie nói, lúc này đã thấy rõ ông ta mang nẹp chân bằng kim loại và dùng nạng để di chuyển. Ông ta đang bước từng bậc một xuống cầu thang, "Tôi biết giờ đã rất khuya".
"Bạn thân mến, khuya quá hóa sớm!" ông mỉm cười: "Vous ri etes pas Americaine?" (1).
Sophie lắc đầu: "Parisienne"(2).
"Tiếng Anh của cô rất tuyệt đấy".
"Cám ơn ngài. Tôi đã học tại trường Hoàng gia Holloway".
"Ra thế, thảo nào", Teabing tập tễnh bước xuống bậc bậc dưới. "Có lẽ Robert đã kể cho cô biết tôi đã từng giảng dạy ở Oxford", Teabing nở một nụ cười tinh quái với Langdon. "Tất nhiên tôi cũng đã nộp đơn xin dạy ở Harvard, xem như trường an toàn của tôi".
Vị chủ nhân đã tới chân cầu thang, Sophie thấy ông chẳng có vẻ hiệp sĩ gì hơn Ngài Elton John (3). Với vóc dáng bệ vệ và khuôn mặt hồng hào, Teabỉng có mái tóc rậm hung dỏ, cặp mắt màu nâu vui tươi dường như lúc nào cũng lấp lánh mỗi khi ông cất lời ông mặc quần chiết li và sơ mi lụa rộng bên trong chiếc vét có hoạ tiết hình cánh hoa. Mặc dù phải dùng nẹp chân bằng nhôm, nhưng ông đi thẳng thớm, nhún nhảy với cái vẻ đường hoàng tựa như kế truyền từ dòng dõi quí tộc hơn là do nỗ lực một cách hữu thức.
Teabing tới và chìa tay cho Langdon: "Robert này, anh giảm cân đi nhiều đấy".
Langdon nhoẻn miệng cười: "Còn ngài thì có tăng trọng một chút".
Teabing cười nồng hậu, vỗ vỗ cái bụng tròn trịa của mình:
Touché!"(4). Dạo này, lạc thú thể xác duy nhất của tôi dường như chỉ là ăn uống". Quay sang Sophie, ông dịu dàng cầm lấy tay cô, khẽ cúi đầu hôn nhẹ lên những ngón tay cô và ngánh mắt đi: "Quý nương".
Sophie liếc nhìn Langdon, không biết mình đã trở lui về thời xa xưa hay vừa bước vào một nhà thương điên.
Người quản gia lúc nãy mở cửa đón họ, giờ bước vào với một bộ đồ trà mà ông ta xếp lên một chiếc bàn trước lò sưởi.
"Đây là Rémy Legaludec", Teabing giới thiệu, "quản gia của tôi".
Người quản gia mảnh mai gật đầu cứng nhắc và lại biến mất.
"Rémy là Lyonnais"(5), Teabỉng thì thào như thể người Lyon là một bệnh dịch vậy, "nhưng ông ta nấu nước sốt rất ngon".
Nom Langdon có vẻ thích chí: "Tôi những tưởng ngài sẽ nhập khẩu cả một đội ngũ nhân viên người Anh cơ đấy?".
"Trời, không đâu! Tôi sẽ không cầu cho bất cứ ai vô phúc vớ phải một đầu bếp người Anh, trừ bọn thu thuế người Pháp".
Ông liếc nhìn Sophie. "Pardonnez-moi (6), thưa cô Neveu. Xin cô hãy tin rằng rằng ác cảm của tôi đối với nước Pháp chỉ mở rộng đến chính trị và sân bóng đá mà thôi. Chính phủ nước cô đã cuỗm mất tiền của tôi, và đội bóng nước cô thì vừa mới hạ nhục chúng tôi".
Sophie mỉm cười thoải mái.
Teabing quan sát cô một lúc rồi lại nhìn Langdon: "Có chuyện gì đó vừa xảy ra. Cả hai bạn đều có vẻ xáo động".
Langdon gật đầu: "Chúng tôi đã có một đêm hay ho đấy, ngài Leigh ạ". "Không nghi ngờ gì nữa. Nửa đêm, anh đến đập cửa nhà tôi không báo trước, lại đem chuyện Chén Thánh ra làm quà. Hãy nói cho tôi biết, thực ra chuyện này có liên quan đến chiếc Chén Thánh hay không? Hay đơn giản anh nói như vậy chỉ vì anh biết rõ rằng đó là chủ đề duy nhất sẽ đánh thức được tôi vào nửa đêm thế này?".
Cả hai, mỗi thứ một chút, Sophie nghĩ thầm, hình dung tới hộp mật mã bên dưới chiếc đivăng.
"Ngài Leigh này", Langdon nói, "chúng tôi muốn nói chuyện với ngài về Tu viện Sion".
Cặp lông mày rậm rạp của Teabing uốn cong lên, lộ vẻ tò mò. "Những người gìn giữ Chén Thánh. Vậy ra hai người đến đây về chuyện Chén Thánh thật. Anh nói có mang một số thông tin tới. Có gì mới không, Robert?".
"Có thể. Chúng tôi cũng không dám chắc lắm đâu. Chúng tôi có thể biết rõ hơn nếu như chúng tôi nhận được thông tin từ phía ngài trước đã".
Teabing dứ dứ ngón tay: "Vẫn cái thói ranh ma của người Mỹ. Một trò có đi có lại. Tốt thôi. Tôi sẵn sàng phục vụ các bạn. Tôi có thể nói cho các bạn biết về điều gì đây?".
Langdon thở dài: "Tôi hy vọng ngài sẽ sẵn lòng giải thích cho cô Neveu đây về bản chất thực của Chén Thánh".
Teabing có vẻ sửng sốt: "Cô ấy chưa biết sao?".
Langdon lắc đầu.
Một nụ cười dần nở trên mặt Teabing, nó gần như tục tĩu:
"Robert này, thì ra anh mang đến cho tôi một trinh nữ".
Langdon cau mặt, liếc nhìn Sophie: "Trinh nữ là một thuật ngữ mà những người say mê Chén Thánh dùng để mô tả bất kì ai chưa bao giờ nghe câu chuyện thật về Chén Thánh".
Teabing sốt sắng quay sang Sophie: "Cô biết đến đâu rồi?".
Sophie nhanh chóng phác qua những gì trước đây Langdon đã giải thích cho cô hay - Tu viện Sion, các Hiệp sĩ Templar, tài liệu Sangreal và cả Chén Thánh mà nhiều người cho rằng đó không chỉ là một chiếc chén…mà đúng hơn là một thứ gì đó đầy quyền lực.
"Chỉ có vậy thôi sao?". Teabing ném về phía Langdon một cái nhìn công phẫn. "Robert này, tôi cứ tưởng anh là một quý ông cơ đấy. Anh đã tước mất của cô gái này đoạn cao trào!"(7).
"Tôi biết, tôi nghĩ ngài và tôi có thể…" Rõ ràng là Langdon thấy phép ẩn dụ khiếm Teabing dùng đã đi quá xa và như thế là quá đủ rồi.
Teabing đã khiến Sophie bị cột chặt vào cái nhìn long lanh của ông: "Cô bạn thân mến, cô là một trinh nữ về Chén Thánh. Và hãy tin tôi, cô sẽ không bao giờ quên lần đầu tiên của mình đâu". Chú thích: (1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Cô không phải là người Mỹ? (2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Người Paris. (3) Danh ca Anh cũng được phong tặng danh hiệu hiệp sĩ. (4) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Trúng đích. (5) Tiếng Pháp trong nguyên bản: người Lyon (6) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Thứ lỗi cho tôi. (7) Chơi chữ: climax trong tiếng Anh vừa có nghĩa là đoạn cao trào, phần có ý nghĩa nhất của một câu chuyện nhưng cũng có nghĩa là phút cực khoái trong giao hợp.
Nằm trên chiếc đivăng bên cạnh Langdon, Sophie uống tách trà và ăn bánh nướng, cảm thấy tác động dễ chịu của chất cafein và đồ ăn. Ngài Leigh Teabing tươi rói trong khi vụng về dạo bước phía trước lò sưởi để ngỏ, những chiếc nẹp chân lách cách trên nền đá.
"Chén Thánh", Teabing nói, giọng giảng giải, "hầu hết mọi người chỉ hỏi tôi là hiện nó ở đâu. Tôi e rằng đó chính là câu hỏi tôi sẽ không bao giờ trả lời được". Ông quay lại nhìn thẳng vào mặt Sophie. "Tuy nhiên… câu hỏi thích đáng nhất chính là: Chén Thánh là gì?".
Sophie cảm thấy một vẻ rào đón mang tính học thuật ở cả hai người bạn nam của mình.
"Để có thể hiểu một cách đầy đủ về Chén Thánh", Teabing tiếp tục trước tiên chúng ta cần phải hiểu Kinh thánh đã. Cô hiểu như thế nào về Tân ước?".
Sophie nhún vai: "Thực sự, tôi chẳng hiểu gì cả. Người nuôi dạy tôi nên người lại rất sùng kính Leonardo Da Vinci".
Teabing có vẻ vừa sửng sốt vừa hài lòng: "Một tâm hồn sáng láng. Tuyệt! Thế thì chắc chắn cô phải biết rất rõ Leonardo là một trong số những người nắm giữ bí mật về Chén Thánh. Và ông ta còn cất giấu những đầu mối về bí mật đó trong nghệ thuật của mình".
"Vâng, Robert đã nói cho tôi như vậy".
"Thế những quan điểm của Da Vinci về Tân ước thì sao?".
"Tôi không biết".
Mắt Teabing trở nên vui thích khi ông khoát tay về phía giá sách ở đầu kia phòng: "Robert này, phiền anh được không? Ở ngăn dưới cùng ấy. Cuốn La stora di Leonardo" (Truyện về Leonardo.
Langdon băng ngang qua căn phòng, ông tìm thấy một cuốn sách khổ lớn về nghệ thuật, đem nó lại, đặt lên mặt bàn giữa hai người. Xoay cuốn sách về phía Sophie, Teabing lật mở tấm bìa dày và chỉ vào một loạt những lời trích dẫn bên trong bìa sau. "Trích từ sổ tay của Da Vinci về luận chiến và suy biện", Teabing vừa nói vừa chỉ tay vào một đoạn trích cụ thể. "Tôi nghĩ cô sẽ thấy đoạn trích này phù hợp với cuộc thảo luận của chúng ta".
Sophie đọc những dòng chữ đó lên.
Nhiều người đã buôn bán những ảo tưởng và những phép màu giả mạo, lừa gạt đám đông ngu ngốc.
LEONARDO DA VINCI.
"Đây là một đoạn khác", Teabing vừa nói vừa chỉ tay một đoạn trích khác.
Sự ngu dốt mù loà đưa chúng ta lầm đường lạc lối.
Hỡi lũ người trần tục khôn khổ, hãy mở mắt ra!
LEONARDO DA VINCI.
Sophie cảm thấy hơi ớn lạnh: "Da Vinci nói về Kinh Thánh đấy ư?".
Teabing gật đầu: "Những cảm giác của Leonardo về Kinh Thánh liên quan trực tiếp tới Chén Thánh. Thực tế, Da Vinci đã vẽ chiếc Chén Thánh đích thực, mà lát nữa tôi sẽ chỉ cho cô xem, nhưng chúng ta phải nói về Kinh Thánh trước đã". Teabing mỉm cười: "Và tất cả những gì cô cần biết về Kinh Thánh đã được tổng kết bởi vị Tiến sĩ, Giáo sĩ vĩ đại Martyn Percy". Teabing hắng giọng và tuyên bố. "Kinh Thánh không đến từ thiên đàng bằng đường fax đâu".
"Xin lỗi tôi không hiểu?".
"Bạn thân mến, Kinh Thánh là một sản phẩm của con người. Chứ không phải là của Chúa. Kinh Thánh không phải rơi xuống từ những đám mây bằng phép mầu. Con người đã sáng tạo ra Kinh Thánh như một hồ sơ lịch sử ghi lại những thời đại loạn lạc và nó đã triển hóa qua vô số những bản dịch, bổ sung, và sửa chữa. Lịch sử chưa bao giờ có một bản chính dứt khoát của cuốn sách này!".
"Tôi hiểu rồi".
Chúa Jesus Christ là một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng chấn động, có lẽ là người lãnh đạo bí hiểm nhất và đem lại nhiều nguồn cảm hứng nhất mà thế giới từng thấy. Với tư cách là vị Chúa Cứu Thế được báo trước, Jesus lật đổ các vị vua, khơi gợi cảm hứng cho hàng triệu người và đã sáng lập ra nhiều nền triết học. Với tư cách là người kế tục dòng dõi của các vị vua Salomon và David, Jesus có quyền chính đáng đòi ngôi Quân vương của người Do Thái. Thật dễ hiểu là cuộc đời của Người được hàng nghìn tín đồ trên khắp các vùng đất ghi chép lại". Teabing dừng lại một chút để nhấm nháp tách trà rồi đặt nó trở lại trên mặt lò sưởi. "Có hơn tám mươi bản phúc âm được xem xét để soạn Tân ước, nhưng chỉ có một số tương đối ít được chọn để đưa vào - Matthew, Mark, Luke, và John".
"Ai là người lựa chọn những bản phúc âm đó để đưa vào Tân ước?" Sophie hỏi.
"Aha!". Teabing bốc lên. "Điều mỉa mai cơ bản của Thiên Chúa giáo! Cuốn Kinh thánh mà chúng ta biết ngày nay được tập hợp và chỉnh lý bởi Constantine Đại đế - một hoàng đế La Mã ngoại đạo".
"Tôi tưởng Constantine là một tín đồ Thiên Chúa giáo", Sophie nói.
"Đâu có", Teabing chế giễu, "Ông ta cả đời là một kẻ ngoại đạo mãi đến khi nằm trên giường lâm chung, quá yếu không thể phản đối được, mới chịu lễ rửa tội. Dưới thời Constantine, quốc giáo của La Mã thờ thần Mặt trời - thờ Sol Invictus tức là Mặt trời không gì thắng nổi - và Constantine chính là tu sĩ đứng đầu quốc giáo đó. Rủi cho ông ta, một cuộc náo loạn tôn giáo ngày càng dữ dội đã tràn ngập La Mã. Ba thế kỉ sau khi Chúa Jesus Christ bị đóng đinh câu rút, số tín đồ của Người đã tăng bội lên theo cấp luỹ thừa. Những tín đồ Thiên Chúa giáo và những người ngoại đạo bắt đầu gây chiến với nhau, và cuộc xung đột phát triển đến mức đe doạ chia cắt La Mã làm hai. Constantine quyết định phải làm một điều gì đó. Vào năm 325 sau Thiên Chúa Giáng Sinh, ông ta quyết tâm thống nhất La Mã dưới hình thức một tôn giáo duy nhất. Đó chính là Thiên chúa giáo".
Sophie ngạc nhiên: "Tại sao một hoàng đế ngoại đạo lại lựa chọn đạo Thiên chúa làm quốc giáo?".
Teabing cười khúc khích: "Constantine là một nhà kinh doanh rất giỏi. Ông ta thấy rõ Thiên chúa giáo ở xu thế đang lên, và đơn giản là ông ta ủng hộ con ngựa thắng cuộc. Các sử gia lấy làm thán phục sự xuất sắc của Constantine trong việc cải đạo cho những người thờ thần Mặt Trời thành những tín đồ Thiên chúa giáo. Bằng việc phối quyện những biểu tượng, ngày tháng, nghi lễ ngoại đạo vào truyền thống Thiên chúa giáo đang ngày càng phát triển, ông đã tạo ra một thứ tôn giáo lai tạo có thể chấp nhận được với cả hai phía".
"Thần thông biến hóa", Langdon nói. "Những dấu tích của dị giáo trong những biểu tượng của Thiên chúa giáo là không thể chối cãi được. Đĩa mặt trời Ai Cập thành hào quang quanh đầu các thánh Thiên Chúa giáo. Những hình diễn đạt nữ thần Isis cho Horus bú, đứa con trai được thụ thai một cách kì diệu, đã trở thành mẫu phác thảo cho các hình vẽ hiện đại thể hiện Đức Mẹ Đồng Trinh Mary cho Chúa Hài Đồng Jesus bú. Và gần như mọi yếu tố trong các nghi lễ của Ki tô giáo như mũ tế, bàn thờ thánh, thánh ca, lễ ban thánh thể cũng như nghi thức rước mình Thánh Chúa đều được lấy thẳng từ những nghi lễ bí nhiệm dị giáo có từ trước đó".
Teabing rên rỉ: "Đừng có để một nhà ký tượng học bắt đầu giảng những bức tượng thánh Thiên chúa giáo. Chẳng có gì trong Thiên chúa giáo là chính gốc. Mithras - mà người ta vẫn quen gọi là Con trai của Thượng đế và Anh sáng của thế giới - là một vị thần tiền - Thiên chúa giáo chào đời vào ngày 25 tháng 12, và khi chết được chôn trong một ngôi mộ bằng đá, rồi tái sinh sau đó ba ngày. Tiện đây xin nói ngày 25 tháng 12 cũng được coi là ngày sinh của Orisis, Adonis và Dionysus. Thần Krishna lúc mới sinh ra đã được dâng tặng vàng, trầm hương và cả nhựa trầm hương. Thậm chí ngày thánh hàng tuần của Cơ đốc giáo cũng là thứ đánh cắp từ những người ngoại đạo".
"Ý ông muốn nói gì?".
"Thoạt kỳ thuỷ". Teabing nói, "Thiên chúa gỉáo tôn vinh ngày hành lễ thứ Bảy Sabbath của người Do Thái, nhưng Constantine đã chuyển ngày lễ đó cho trùng với ngày lễ thần Mặt Trời của người ngoại đạo". Ông dừng lạí và cười. "Cho đến tận bây giờ, những con chiên đi lễ chầu sáng Chủ nhật vẫn không mảy may biết rằng họ ở đó để dự tế thần Mặt Trời hàng tuần của người ngoại đạo - Chủ nhật có nghĩa là ngày của mặt trời mà".
Sophie cảm thấy đầu óc quay cuồng: "Và tất cả những điều này đều liên quan đến Chén Thánh?.
"Quả vậy", Teabing nói, "hãy tiếp tục cùng tôi. Trong thời kì hợp nhất tôn giáo ấy, Constantine cẫn tăng cường truyền thống mới trong Thiên chúa giáo và triệu tập một cuộc họp toàn giáo hội nổi tiếng gọi là Hội đồng Nicaea".
Sophie có nghe nói đến Hội đồng Nicaea nhưng chỉ biết đó là nơi ra đời của Kinh tin kính Nicene.
"Tại cuộc họp này", Teabing nói, "nhiều khía cạnh của Thiên chúa giáo đã được mang ra tranh cãi và biểu quyết như lễ Phục sinh vai trò của các giám mục, việc quản lí các nghi lễ và tất nhiên, cũng bao gồm cả tính thiên giới của Jesus".
"Tôi không hiểu. Tính thiên giới của Jesus nghĩa là sao?".
"Bạn thân mến ơi", Teabing tuyên bố, "cho đến thời điểm đó trong lịch sử, các tín đồ của Jesus vẫn chỉ coi Người như một nhà tiên tri trần tục… nghĩa là một con người vĩ đại và đầy uy lực nhưng dù sao mặc lòng vẫn là một con người. Một kẻ trần tục".
"Không phải là Con trai của Chúa trời sao?".
"Đúng vậy", Teabing nhận xét, "việc cố tình công nhận Jesus là Con trai của Chúa trời được đề xuất chính thức và biểu quyết bởi Hội đồng Nicaea".
"Hượm đã. Ông nói tính thiên giới của Jesus là kết quả của một cuộc bỏ phiếu biểu quyết?".
"Mà lại là một cuộc biểu quyết tương đối hẹp nữa chứ", Teabing bổ sung, "Dù sao đi nữa, việc khẳng định tính thiên giới của Christ có tính quyết định đối với việc thống nhất đế chế La Mã và cơ sở quyền lực mới của Vatican. Bằng việc chính thức xác nhận Jesus là Con trai của Chúa Trời, Constantine đã biến Jesus thành một vị thần tồn tại ngoài phạm vi thế giới loài người, một thực thể với quyền uy vượt qua mọi thách thức. Điều này không chỉ ngăn chặn những thách thức mới đối với Thiên Chúa giáo từ phía những người ngoại đại, mà giờ đây những tín đồ của Christ còn có thể tự cứu chuộc mình thông qua con đường linh thiêng duy nhất đã được chế định - nhà thờ Thiên Chúa giáo La Mã".
Sophie liếc nhìn Langdon, ông nhẹ nhàng gật đầu khẳng định.
"Tất cả đều có liên quan đến quyền lực", Teabing tiếp tục, "Christ, với tư cách là Chúa Cứu thế, có tầm quan trọng quyết định đối với sự vận hành của nhà thờ cũng như của nhà nước. Nhiều học giả tuyên bố rằng Nhà thờ sơ khởi đã đánh cắp Jesus theo nghĩa đen từ những tín đồ ban đầu của ông, cưỡng doạt thông điệp nhân văn của ông, trùm lên thông điệp đó một tấm màn dày đặc là tính thiên giới và sử dụng nó để mở rộng quyền lực của riêng họ. Tôi đã viết một vài cuốn sách về đề tài này".
"Tôi đồ rằng hắn các tín đồ Thiên chúa giáo mộ đạo ngày nào cũng gửi cho ông những bức thư hằn học?".
"Tại sao họ phải làm thế?". Teabing phản bác. "Đại đa số những tín đồ Thiên chúa có học vấn đều biết lịch sử tín ngưỡng của mình. Quả thực, Jesus là một con người vĩ đại và giàu sức mạnh. Những thủ đoạn chính trị lừa lọc của Constantine không làm giảm sút sự vĩ đại của Jesus. Không ai nói rằng Christ là một vụ gian trá hay chối cãi rằng ông đã đi khắp thế gian và gieo vào lòng hàng triệu người khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chúng tôi chỉ nói Constantine đã lợi dụng tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn lao của Christ. Làm như vậy, ông ta đã tạo ra diện mạo của Thiên chúa giáo như chúng ta biết ngày nay".
Sophie liếc nhìn cuốn sách nghệ thuật nằm trước mặt cô, háo hức muốn giở tiếp để xem bức hoạ của Da Vinci về Chén Thánh.
"Sự xoay chuyển là thế này", Teabing lúc này nói nhanh hơn, "bởi vì Constantine nâng vị thế của Jesus sau khi Jesus qua đời gần bốn thế kỉ, nên đã có hàng ngàn tài liệu ghi chép lại cuộc đời của Jesus như là một con người trần tục. Để chỉnh biên lại những cuốn sách lịch sử này, Constantine biết mình cần làm một cú táo bạo. Do vậy, đã nẩy sinh thời điểm sâu sắc nhất trong lịch sử Thiên chúa giáo". Teabing dừng lại và nhìn Sophỉe. "Constantine đã tài trợ và đặt người viết một cuốn Kinh Thánh mới, trong đó tước bỏ những bản phúc âm mô tả những nét con người trần thế của Christ và tô điểm những bản thể hiện Christ như một vị thần. Những sách phúc âm trước đó bị coi là bất hợp pháp, phải thu gom lại và đốt sạch".
"Một lưu ý thú vị", Langdon bổ sung, "bất kì ai chọn những bản phúc âm bị cấm thay vì bản của Constantine đều bị coi là dị giáo. Từ dị giáo phát sinh từ thời điểm lịch sử này. Trong tiếng Latinh từ haereticus có nghĩa là "sự lựa chọn". Những ai lựa chọn, lịch sử khởi nguyên của Christ đều là những kẻ dị giáo đầu tiên của thế giới".
"Cũng may cho các sử gia", Teabing nói, "một vài trong số những phúc âm mà Constantine cố gắng thủ tiêu vẫn còn sót.
Vào những năm 1950, người ta đã tìm thấy những bản ghi chép về vùng Biển Chết cuộn trong ống được giấu trong một cái hang gần Qumran trong sa mạc Judean. Và tất nhiên, phải kể đến những ống giấy Coptic mà người ta đã tìm thấy vào năm 1945 tại Nag Hammadi. Thêm vào việc kể câu chuyện thật về Chén Thánh, những văn bản này đều nói đến chức năng dẫn dắt của Christ bằng những lời lẽ rất người. Tất nhiên, phù hợp với truyền thống bóp méo thông tin của mình, Vatican đã ra sức dẹp việc lưu hành những ống giấy này. Tại sao lại không cơ chứ? Những ống giấy đó đã phanh phui sự bịa đặt và những sai trật rành rành về lịch sử, khẳng định rõ ràng rằng cuốn Kinh thánh ngày nay được soạn thảo và biên tập bởi những người có sẵn một đề cương chính trị: đề cao tính thiên giới của con người trần Jesus Christ và lợi dụng ảnh hưởng của Người để củng cố cơ sở quyền lực của chính họ.
"Tuy nhiên", Langdon phản đối, "cần phải nhớ rằng mong muốn của Nhà Thờ hiện đại - xóa bỏ những tài liệu ấy - xuất phát từ một niềm tin chân thành vào quan điểm đã chế định về Christ. Vatican bao gồm những người mộ đạo sâu sắc thực sự tin rằng những tài liệu đối lập kia chỉ là những chứng cứ giả mạo mà thôi".
Teabing cười tủm khi ông ngồi vào chiếc ghế đối diện với Sophie: "Như cô thấy đấy, vị giáo sư của chúng ta thông cảm với Roma hơn tôi nhiều. Tuy nhiên, ông ấy đúng khi nói giới tu sĩ hiện đại tin rằng những tài liệu chống đối kia là chứng cứ giả mạo. Điều đó hoàn toàn có thể hiểu được. Cuốn Kinh thánh của Constantine đã là chân lý của họ suốt nhiều thế kỉ. Chẳng có ai được truyền giáo triệt để hơn những người truyền giáo".
"Điều ông ấy muốn nói", Langdon nói, "là chúng ta thờ các vị thần của cha ông chúng ta".
"Điều tôi muốn nói", Teabing phản đối, "là hầu hết những điều ông cha chúng ta dạy chúng ta về Christ là sai. Cũng như những câu chuyện về Chén Thánh".
Sophie nhìn lại đoạn trích của Da Vinci ở trước mặt cô. Sự ngu dốt mù loà đưa chúng ta lầm đường lạc lối. Hỡi lũ người trần tục khôn khổ, hãy mở mắt ra!
Teabing với tay lấy cuốn sách và lật đến trang giữa: "Và cuối cùng, trước khi tôi chỉ cho cô thấy những bức hoạ của Da Vinci về Chén Thánh, tôi muốn cô hãy xem qua cái này". Ông giở tới một bức đồ hoạ màu in tràn cả hai trang. "Tôi cho rằng cô nhận ra bức bích họa này chứ?".
Ông ta đang đùa, đúng không? Sophie nhìn chăm chú vào bức bích họa nổi tiếng mọi thời đại -Bữa ăn tối cuối cùng - bức tranh huyền thoại của Da Vinci trên tường nhà thờ Santa Maria della Grazie ở Milan. Bức bích họa đang hư nát ấy mô tả cảnh Jesus và các tông đồ của mình vào lúc Jesus thông báo rằng một tông đồ đã phản bội ông.
"Vâng, tôi biết bức tranh tường này".
"Vậy thì có lẽ cô sẽ cho phép tôi làm một trò nhỏ này nhé? Xin cô hãy nhắm mắt lại".
Lưỡng lự rồi cô nhắm mắt lại.
"Jesus ngồi ở đâu?", Teabing hỏi.
"Ở giữa".
"Tốt. Và ông cùng với các tông đồ đang ăn thứ gì vậy?".
"Bánh mì". Rõ ràng là thế.
"Tuyệt. Thế họ uống gì?".
"Rượu. Họ uống rượu".
"Tuyệt. Câu hỏi cuối cùng đây. Có bao nhiêu cốc rượu trên mặt bàn?".
Sophie dừng lại nhận ra đây là câu hỏi bẫy. Sau bữa tối, Jesus đã cầm chiếc cốc rượu của mình lên, uống cùng với các tông đồ. "Một chiếc", cô trả lời. "Chiếc cốc. Chiếc cốc của Christ. Chén thánh". Jesu chỉ truyền tay với họ một cốc rượu vang thôi giống như những người Thiên chúa giáo hiện đại làm trong lễ Thánh Thể".
Teabing thở dài: "Cô mở mắt ra được rồi".
Cô mở mắt. Teabing cười tự mãn. Sophie xoáy mắt vào bức tranh, và ngạc nhiên thấy mọi người ngồi ở bàn ấy đều có một ly rượu vang, kể cả Christ nữa. Mười ba chiếc ly. Hơn nữa, những chiếc ly này đều nhỏ, không có chân và bằng thuỷ tinh. Không hề có một chiếc chén thiêng nào trong bức tranh này. Không có Chén Thánh.
Mắt Teabing lấp lánh: "Hơi lạ lùng đấy, cô không nghĩ như vậy sao, vì cả Kinh Thánh lẫn giai thoại về Chén Thánh đều tôn vinh thời điểm này như là sự xuất hiện chính thức của Chén Thánh. Kì thay, Da Vinci có vẻ như đã quên không vẽ chiếc Chén thiêng của Christ".
"Chắc chắn các học giả nghiên cứu nghệ thuật sẽ phải lưu ý đến điều này".
"Cô sẽ bị sốc khi biết rằng những điều bất thường mà Da Vinci đưa vào bức tranh này, hầu hết các học giả hoặc là không nhìn ra hoặc là cố tình phớt lờ đi. Trên thực tế, bức tranh này chính là toàn bộ chìa khoá để mở ra bí mật Chén Thánh. Da Vinci đã phơi bày ra cả trong Bữa tối cuối cùng".
Sophie hăm hở rà mắt trên bức tranh: "Bức bích họa này cho chúng ta biết thực sự Chén Thánh là cái gì sao?".
"Không phải là cái gì", Teabing thì thào. "Mà là ai mới đúng. Chén Thánh không phải là một vật. Trên thực tế, đó là một… người".
Sophie đăm đăm nhìn Teabing hồi lâu, rồi quay sang Langdon: "Chén Thánh là một người thật sao?".
Langdon gật đầu: "Thực tế, đó là một phụ nữ". Bằng vào cái nhìn đờ đẫn trên khuôn mặt Sophie, Langdon có thể nói họ đã làm cô hoang mang. Langdon chợt nhớ ra ông cũng có phản ứng như vậy khi lần đầu tiên nghe lời khẳng định ấy. Mãi tới khi ông hiểu ra biểu tượng đằng sau Chén Thánh thì mối liên hệ với tính nữ ấy mới trở nên rõ ràng.
Rõ ràng Teabing cũng có suy nghĩ tương tự như vậy: "Robert này, có lẽ đây là lúc nhà ký tượng học làm sáng tỏ vấn đề, đúng không?". Bước tới một cái bàn gần đấy, ông tìm thấy một mảnh giấy và đặt nó trước mặt Langdon.
Langdon rút từ trong túi áo ra một chiếc bút máy: "Sophie, cô biết biểu tượng hiện đại dành cho nam và nữ chứ?". Ông vẽ kí tượng nam và kí tượng nữ".
"Tất nhiên", cô trả lời.
"Những hình này", ông nói nhẹ nhàng, "không phải là biểu tượng ban đầu của nam và nữ đâu. Nhiều người đã lầm khi cho rằng biểu tượng nam bắt nguồn từ một cái khiên và một cái thương, còn biểu tượng nữ là một tấm gương phản chiếu vẻ đẹp. Thực ra những biểu tượng này bắt nguồn từ những biểu tượng trong thiên văn cổ xưa là nam thần Hỏa tinh và nữ thần Kim tinh. Những biểu tượng ban đầu bao giờ cũng đơn giản hơn nhiều".
Langdon vẽ lên mẩu giấy một kí tượng khác.
"Đây là biểu tượng ban đầu dành cho nam", ông giảng giải cho Sophie biết, "Một chiếc dương vật ở dạng thô sơ".
"Rất thích đáng", Sophie nhận xét.
"Có thể nói thế". Teabing bổ sung.
Langdon tiếp tục: "Biểu tượng này chính thức được biết đến như là lưỡi gươm, và nó tượng trưng cho sự hiếu chiến và nam tính. Trong thực tế, biểu tượng dương vật chính xác này ngày nay vẫn được sử dụng trên đồng phục của quân đội để chỉ cấp bậc".
"Thực thế", Teabing nhe răng ra cười, "anh càng lắm dương vật cấp bậc anh càng cao. Nam nhi vẫn là nam nhi mà".
Langdon cau mày lại: "Tiếp tục, biểu tượng nữ, như cô có thể hình dung, là hoàn toàn ngược lại". Ông lại vẽ một biểu tượng khác lên mẩu giấy, "Biểu tượng này được gọi là chiếc ly".
Sophie ngước lên, vẻ ngạc nhiên.
Langdon có thề thấy cô đã nhận ra mối liên hệ: "Chiếc ly", Langdon nói vậy, "giống hình một cái cốc hay một chiếc bát, và quan trọng hơn, nó giống hình tử cung đàn bà.Biểu tượng này biểu đạt tính nữ, tính chất đàn bà và tính phồn thực". Lúc này Langdon nhìn thẳng vào Sophie. "Sophie, truyền thuyết bảo chúng ta rằng Chén Thánh là một chiếc ly - một loại cốc. Nhưng sự mô tả Chén Thánh như một chiếc ly thực chất là một phép phóng dụ để bảo vệ bản chất đích thực của Chén Thánh mà thôi. Có nghĩa là truyền thuyết dùng hình ảnh chiếc ly như một ẩn dụ cho một cái gì quan trọng hơn nhiều".
"Một phụ nữ?" Sophie hỏi.
"Chính xác", Langdon mỉm cười, "chiếc Chén, theo nghĩa đen, là biểu tượng cổ xưa của tính chất đàn bà và Chén Thánh biểu thị tính nữ thiêng liêng và nữ thần, điều này tất nhiên hiện nay đã mai một, thực tế đã bị Nhà Thờ loại bỏ. Quyền năng của người nữ và khả năng sản sinh ra sự sống đã từng được coi là linh thiêng, nhưng sự linh thiêng ấy đe doạ sự thăng tiến của Nhà Thờ mà đại đa số thành phần là nam, và thế là tính nữ thiêng liêng bị cho là quỷ quyệt và không trong sạch. Chính con người, chứ không phải Chúa, đã tạo ra khái niệm "tội tổ tông truyền", theo đó Eve đã ăn quả táo và gây ra sự sa đọa của loài người. Đàn bà trước đây là người đem lại sự sống thiêng liêng thì giờ đây lại trở thành kẻ thù".
"Tôi nên bổ sung một chút", Teabing hùn vào, "khái niệm về đàn bà với tư cách là người đem lại sự sống chính là nền tảng của tôn giáo cổ xưa. Sinh nở là huyền bí và đầy quyền năng.
Buồn thay, triết lý Thiên Chúa giáo sau này đã quyết định biển thủ quyền năng tạo sinh của người nữ bằng cách không đếm xỉa đến sự thật sinh học ấy và biến đàn ông thành Đấng Sáng Tạo. Sáng Thế Ký (1) dạy chúng ta rằng Eve được tạo ra từ chỉếc xương sườn của Adam. Và từ đó người phụ nữ đã trở thành một nhánh phụ của người đàn ông. Đã thế lại là một nhánh phụ tội lỗi nữa. Sáng Thế Ký là điểm khởi đầu cho sự kết thúc đối với các nữ thần".
"Chén thánh", Langdon nói, "tượng trưng cho hình ảnh nữ thần tiêu vong. Khi Thiên chúa giáo lớn mạnh, các tôn giáo ngoại đạo cổ xưa cũng không chết dễ dàng. Các truyền thuyết về các hiệp sĩ đi tìm Chén Thánh bị thất lạc trên thực tế là những truyện kể về cuộc tìm kiếm tính nữ thiêng liêng bị thất lạc một cuộc tìm kiếm bị cấm. Những hiệp sĩ tuyên bố "kiếm tìm Chén Thánh", thực ra đang nói theo cách mã hóa như là một phương thức để bảo vệ an toàn cho chính họ trước thế lực của Nhà Thờ - thế lực đã chế ngự phụ nữ, loại trừ nữ thần, thiêu sống những người không tin Chúa và cấm việc tôn sùng tính nữ linh thiêng của những người ngoại đạo".
Sophie lắc đầu: "Tôi xin lỗi, khi anh nói rằng Chén Thánh là một con người. Tôi cứ đinh ninh rằng anh định nói đó là một con người có trong thực tế hẳn hoi".
"Đúng vậy", Langdon trả lời.
"Và không phải bất kì người nào nhé", Teabing bật ra và phấn khích đứng dậy một cách khó khăn, "một người phụ nữ mang theo mình một bí mật; bí mật này hàm chứa một quyền năng ghê gớm đến nỗi nếu bị tiết lộ, nó có thể phá huỷ chính nền tảng của Thiên chúa giáo!".
Sophie có vẻ bị choáng ngợp: "Người phụ nữ này có nổi tiếng trong lịch sử không?".
"Rất nổi tiếng". Teabing lượm lấy đôi nạng và chỉ về phía hành lang. "Bạn thân mến, nếu chúng ta rời đến thư phòng của tôi, tôi sẽ rất vinh dự chỉ cho bạn thấy bức hoạ của Da Vinci về người đàn bà ấy".
Cách đó hai phòng, trong nhà bếp, người hầu Rémy Lagadulec đứng lặng trước một cái tivi. Đài truyền hình đang phát đi bức ảnh một người đàn ông và một phụ nữ.Chính hai người khách mà Rémy vừa mới phục vụ trà. Chú thích: (1) Phần đầu tiên của Kinh Cựu ước
Chương 57
Đứng ở chỗ rào chắn đường bên ngoài Ngân hàng Ký thác Zurich, Trung uý Collet tự hỏi không biết điều gì khiến Fache mãi chưa lấy được lệnh khám xét. Rõ ràng, người trong ngân hàng này đang che giấu một điều gì đó. Họ khai rằng Langdon và Sophie đã đến đây sớm hơn và đã bị ngân hàng từ chối vì không đủ giấy tờ chứng nhận tài khoản hợp thức. Vậy thì tại sao họ lại không để chúng ta vào ngó qua một cái?
Cuối cùng, điện thoại di động của anh cũng reo lên. Cú điện được gọi từ sớ chỉ huy đặt tại Louvre. "Đã có lệnh khám xét chưa?". Collet hỏi.
"Quên cái ngân hàng ấy đi, trung uý", người nhân viên nói. Chúng tôi vừa nhận được một tin trình báo. Chúng tôi đã có địa điểm chính xác, nơi Langdon và Sophie đang lẩn trốn".
Collet ngồi phịch xuống mui xe: "Ông đang đùa chắc".
"Tôi đã có được địa chỉ ở vùng ngoại ô. Một nơi nào đó gần Versailles".
"Đại uý Fache đã biết chưa?".
"Chưa đâu. Ông ta đang bận trả lời một cuộc gọi quan trọng".
"Tôi lên đường đây. Hãy bảo ông ta gọi lại cho tôi ngay sau khi nói chuyện điện thoại xong". Collet ghi lại địa chỉ rồi nhảy vào xe. Khi rời khỏi ngân hàng, Collet chợt nhận ra anh đã quên không hỏi xem ai đã báo nơi lẩn trốn của Langdon cho DCPJ. Điều ấy không quan trọng lắm. Chúa đã ban cho anh cơ may để chuộc lại những lỗi bất cẩn khi trước cùng thái độ hoài nghi của mình. Anh sắp làm cuộc bắt giữ nổi đình đám nhất trong sự nghiệp cảnh sát của mình.
Collet gọi qua sóng radio thêm năm chiếc xe nữa để tiếp ứng: "Không rúc còi báo động, anh em. Tay Langdon không thể biết rằng chúng ta đang đến".
***
Cách đó bốn mươi cây số, một chiếc Audi màu đen rời khỏi con đường quê và đỗ dưới bóng tối bên rìa một cánh đồng. Silas bước ra khỏi xe và nhòm qua những chấn song của hàng rào sắt vây quanh một khu liên hợp rộng lớn trước mặt. Hắn đăm đăm nhìn con dốc đầy ánh trăng dẫn tới toà lâu đài phía xa xa.
Đèn dưới nhà đều sáng trưng. Kỳ lạ vào giờ này, Silas mỉm cười nghĩ thầm. Thông tin Thầy Giáo vừa cho hắn rõ ràng là chính xác. "Mình sẽ không rời khỏi toà nhà này nếu không có viên đá đỉnh vòm, hắn thề. Mình sẽ không làm Đức Giám mục và Thầy Giáo phải thất vọng.
Sau khi đã kiểm tra băng đạn mười ba viên trong khẩu Heckler & Koch của mình, Silas đẩy khẩu súng qua chấn song để nó rơi trên nền đất phủ đầy rêu phía trong. Rồi hắn nắm chặt lấy phía trên hàng rào, đu người lên, băng qua và buông mình xuống nền đất phía bên kia. Không đếm xỉa đến những vết đau do hành xác, hắn nhặt lại khẩu súng và bắt đầu đi trên triền dốc phủ cỏ.
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853
Thư phòng của Teabing chẳng glống với bất kì phòng làm việc nào mà Sophie từng thấy trước đó. Lớn gấp sáu - bảy lần những văn phòng thuộc loại sang trọng nhất, cabinet de travail (1) của ngài hiệp sĩ giống như một thứ lai tạp vụng về giữa phòng thí nghiệm khoa học, thư viện lưu trữ và chợ trời trong nhà vậy. Dưới ánh sáng của ba chiếc đèn chùm, sàn nhà lát đá rộng mênh mông như mặt biển lác đác từng cụm đảo là những bàn làm việc lấp dưới những đống nào sách, nào tác phẩm nghệ thuật, nào đồ tạo tác, và la liệt máy móc thiết bị điện tử nhiều đến kinh ngạc - máy vi tính, máy chiếu, kính hiển vi, máy photo copy và máy quét.
"Tôi đã cải biến phòng khiêu vũ thành thế này", Teabing giới thiệu, có vẻ ngượng khi lệt xệt bước vào phòng. "Vì tôi ít có dịp khiêu vũ mà".
Sophie có cảm giác như thể toàn bộ bóng đêm đã biến thành một vùng tranh sáng tranh tối trong đó không một thứ gì giống như cô chờ đợi. "Tất cả những thứ này là để phục vụ cho công việc của ông?".
"Khám phá sự thực đã trở thành mối tình của đời tôi", Teabing nói. "Và Chén Thánh chính là người tình cưng nhất của tôi". Chén Thánh là mộtngười phụ nữ. Sophie nghĩ thầm, đầu óc cô như một mớ hỗn độn những ý tưởng đan bện vào nhau dường như chẳng có nghĩa gì cả. "Ông nói có một bức hoạ vẽ người phụ nữ mà ông khẳng định người đó là Chén Thánh?".
"Đúng vậy, nhưng không phải tôi là người khắng định bà ấy là Chén Thánh. Đích thân Christ đã khẳng định điều đó".
"Thế đó là bức nào vậy?" Sophie hỏi, đáo mắt tìm khắp bốn bức tường.
"À, Teabing giả bộ như đã quên béng mất điều đó. "Chén Thánh. Sangreal. Chiếc ly", ông đột ngột quay phắt người, chỉ vào bức tường cuối phòng trên đó có treo một phiên bản in dài khoảng hai mét rưỡi của bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng giống hệt hình ảnh Sophie vừa xem lúc nãy. "Bà ấy đó!".
Sophie chắc chắn đã bỏ sót một chi tiết nào đó: "Nó giống hệt với bức tranh mà ông vừa cho tôi xem".
Ông nháy mắt: "Tôi biết, nhưng bản phóng to li kì hơn nhiều.
Cô không nghĩ thế sao?".
Sophie quay sang Langdong cầu cứu: "Tôi rất hoang mang".
Langdon mỉm cười: "Như đã vỡ lẽ ra, Chén Thánh quả đã xuất hiện trong bức hoạ Bữa ăn tối cuối cùng. Leonardo đã thể hiện bà ấy thật nổi bật".
"Khoan", Sophie nói, "Ông bảo tôi Chén Thánh là một phụ nữ. Nhưng Bữa ăn tối cuối cùng là một bức tranh gồm mười ba người đàn ông".
"Thật sao?", Teabing nhíu mày. "Cô hãy nhìn kỹ hơn nữa đi".
Phân vân, Sophie tiến đến gần bức tranh hơn, nhìn kỹ vào mười ba người - Jesus Christ ngồi ở giữa, sáu tông đồ ngồi bên trái và sáu người nữa ngồi bên phải. "Tất cả bọn họ đều là đàn ông", Sophie khắng định.
"Thế à?". Teabing nói. "Thế còn người ngồi ở vị trí danh dự phía tay phải của Chúa thì sao?".
Sophie xem kĩ lại người ngồi ngay bên phải Jesus tập trung vào đó. Khi cô quan sát khuôn mặt và thân hình người đó, một nỗi ngạc nhiên cuộn lên trong cô. Người này có mái tóc đỏ lượn sóng, hai tay chắp lại nhỏ nhắn, và thoáng nét vồng lên của bộ ngực. Không còn nghi ngờ gì đó là… một người đàn bà.
"Đó là một người đàn bà?". Sophie thốt lên.
Teabing cười vang: "Ngạc nhiên, ngạc nhiên hả. Tin tôi đi, không có sai sót gì đâu. Leonardo rất điêu luyện trong việc thể hiện sự khác biệt về giới tính đấy".
Sophie không sao rời mắt khỏi người đàn bà ngồi bên cạnh Christ. Bữa ăn tối cuối cùng đúng ra phải thể hiện mười ba người đàn ông. Người đàn bà này là ai? Mặc dù Sophie đã nhiều lần xem bức hoạ kinh điển này, nhưng chưa một lần nào cô để ý thấy sự trật lấc rành rành này.
"Mọi người đều bỏ sót đỉều này", Teabing nói. "Tiên kiến hình thành sẵn trong ta về cảnh này mạnh đến mức trí óc ta loại trừ điều lạc lõng đó và bất chấp con mắt ta".
"Người ta gọi đó là ám thị", Langdon bổ sung. "Bộ óc đôi khi lấn át thị giác đối với cả những biểu tượng rất rõ".
"Một lí do khác khiến cô bỏ qua người đàn bà này", Teabing nói tiếp, "đó là rất nhiều ảnh trong các cuốn sách nghệ thuật được chụp trước năm 1954, khi đó những chi tiết còn bị lấp dưới những lớp bụi bẩn và một số lần phục chế lại do những đôi tay vụng về ở thế kỉ thứ XVIII. Giờ đây, rốt cuộc thì bức bích hoạ này cũng đã được làm sạch tới lớp vẽ ban đầu của Da Vinci".
Ông đi về phía bức tranh. "Và đây!".
Sophie tiến lại gần hình ảnh đó hơn nữa. Người đàn bà phía tay phải Jesus còn trẻ, vẻ sùng đạo, khuôn mặt e lệ, mái tóc đẹp màu đỏ, và tay chắp lại nhẹ nhàng. Đây là người đàn bà có thể một mình làm sụp đổ cả Giáo hội sao? "Người đàn bà này là ai vậy?" Sophie hỏi.
"Bạn thân mến ơi, đó chính là", Teabing đáp lại, "Mary Magdalene".
Sophie quay ngoắt người: "Là ả điếm đó sao?".
Teabing hít một hơi, cứ như thể cái từ ấy làm tổn thương chính ông ta vậy: "Magdalene không phải là thế đâu. Quan niệm sai lầm đáng tiếc ấy chính là hậu quả của chiến dịch bôi nhọ thanh danh Magdalene được Giáo hội trước đây phát động.
Giáo hội cần phải phỉ báng Mary Magdalene để che giấu bí mật nguy hiểm của bà - vai trò của bà với tư cách là Chén Thánh". "Vai trò của bà ấy?".
"Như tôi đã đề cập ở trên", Teabing nói rõ hơn, "Giáo hội cần thuyết phục cả thế giới tin rằng nhà tiên tri trần tục Jesus là người thuộc thiên giới. Vì vậy, mọi phúc âm mô tả những khía cạnh trần tục trong cuộc đời của Jesus đều bị loại bỏ khỏi Kinh Thánh. Không may cho các nhà biên tập thời xưa, một chủ đề trần tục đặc biệt rắc rối cứ trở đi trở lại trong các bản phúc âm. Đó chính là Mary Magdalene", ông dừng lại. "Cụ thể hơn, đó là cuộc hôn nhân của bà với Jesus Christ".
"Xin ông làm ơn nhắc lại?" Mắt Sophie lia sang Langdon rồi quay trở lại Teabing.
"Đây là một vấn đề ghi chép lịch sử", Teabing nói tiếp. "Chắc chắn Da Vinci đã biết sự việc này. Bữa ăn tối cuối cùng gần như chỉ cho người xem thấy Jesus và Magdalene là một cặp".
Sophie quay lại nhìn bức hoạ.
"Hãy chú ý rằng Jesus và Magdalene mặc đồ như thể người này là hình ảnh của người kia trong gương vậy". Teabing chỉ tay vào hai người ở vị trí trung tâm của bức tranh.
Sophie như bị hút hồn. Chắc chắn là quần áo của họ có màu đảo nghịch nhau. Jesus mặc áo thụng dài màu đỏ và khoác áo choàng màu xanh trong khi Mary Magdalene mặc áo thụng dài màu xanh và khoác áo choàng màu đỏ. Dương và âm.
"Đi sâu vào một điều kì quặc hơn", Teabing nói, "hãy chú ý là Jesus cùng cùng vị hôn thê của mình tựa như hông gắn vào nhau và mỗi người ngả sang một phía như thể để tạo ra cái khoảng tiêu cực được vạch ra rõ ràng giữa họ".
Trước cả khi Teabing vạch nét đó cho cô thấy, Sophie đã kịp nhận ra hình không thể chối cãi được ở chính tâm điểm của bức tranh. Đó chính là kí tượng mà Langdon đã vẽ lúc nãy biểu trưng cho Chén Thánh, chiếc ly và cả tử cung của người đàn bà.
"Cuối cùng", Teabing nói, "nếu cô nhìn Jesus và Magdalene như là những yếu tố bố cục chứ không phải như những con người, cô sẽ thấy một hình khác rất hiển nhiên đập vào mắt cô". Ông ta dừng lại. "Một chữ trong bảng chữ cái".
Sophie nhìn thấy nó ngay tức thì. Nói rằng chữ cái ấy đập vào mắt Sophie còn chưa đủ. Chữ cái đó bỗng nhiên là tất cả những gì Sophie nhìn thấy. Lồ lộ ở chính giữa bức tranh là nét vạch rành rành một chữ M to tướng, tạo hình thật hoàn hảo.
"Quá hoàn hảo đối với một sự trùng hợp, chẳng phải cô định nói như vậy sao?". Teabing hỏi Sophie.
Sophie rất đỗi ngạc nhiên: "Tại sao lại có chứ M ở đấy?".
Teabing nhún vai: "Những nhà lý thuyết về âm mưu sẽ nói với cô rằng chữ M thay cho Matrimonio hay Mary Magdalene. Thành thực mà nói, chả ai dám chắc cả. Điều duy nhất chúng ta dám chắc là: chữ M ẩn giấu đó không phải là một lỗi. Vô số các tác phẩm liên quan đến Chén Thánh đều chứa chữ M ẩn tàng - hoặc dưới dạng hoa văn chìm, hoặc nằm ở lớp sơn lót, hoặc như là thành phần bố cục. Và rõ rành nhất đương nhiên là chữ M được dùng để trang trí bàn thờ trong nhà thờ Đức Bà Paris ở Luân Đôn, do một cựu Đại Sư của Tu viện Sion, Jean Cocteau, thiết kế".
Sophie cân nhắc kỹ lưỡng những thông tin này: "Tôi thừa nhận rằng chữ M giấu rất gợi tò mò, mặc dù tôi đồ rằng không ai dám thẳng định nó là bằng chứng về cuộc hôn nhân của Jesus với Magdalene".
"Không, không", Teabing nói, đi tới chiếc bàn đầy sách cạnh đó, "như tôi đã nói lúc nãy, cuộc hôn nhân của Jesus và Magdalene là một phần trong những ghi chép lịch sử". Ông bắt đầu lục lọi trong bộ sưu tập sách của mình. "Hơn nữa, Jesus với tư cách là một người có vợ hắn sẽ hợp lý hơn nhiều so với quan điểm chuẩn mực trong Kinh thánh của chúng ta về một Jesus độc thân".
"Tại sao?". Sophie hỏi.
"Bởi vì Jesus là một người Do Thái", Langdon giảng giải, trong khi Teabing tìm kiếm cuốn sách của ông, "Và chuẩn mực xã hội vào thời đó thực tế không cho phép đàn ông Do Thái sống độc thân. Theo phong tục của người Do Thái, việc sống độc thân bị lên án, và bổn phận của mỗi ông bố người Do Thái là phải tìm bằng được một cô vợ thích hợp cho con trai mình. Nếu Jesus không kết hôn, thì chí ít phải có một trong những phúc âm của Kinh thánh đề cập đến điều này và đưa ra lời giải thích về tình trạng độc thân trái tự nhiên của Người".
Teabing tìm thấy một cuốn sách to tướng và kéo nó về phía mình. Cuốn sách đóng bìa da khổ bằng một tấm áp phích, giống như một bộ bản đồ Atlas lớn. Dòng chữ tít trên bìa: Tuyển tập phúc âm ngộ đạo. Teabing mở sách ra, Langdon và Sophie xán lại Sophie có thể thấy nó bao gồm những ảnh chụp những đoạn được phóng to trong các tài liệu cổ - văn bản viết tay trên giấy papyrut đã rách tả tơi. Cô không hiểu được thứ ngôn ngữ cổ đó, nhưng những trang đối diện có in lời dịch.
Đây là những bản photocopy từ những ống giấy được tìm thấy ở vùng Biển Chết và Nag Hammadi mà tôi đã nhắc đến lúc nãy", Teabing nói, "Những bản ghi chép cổ nhất của đạo Thiên Chúa. Rắc rối là ở chỗ: chúng lại không khớp với những phúc âm trong Kinh Thánh". Lật tới gỉữa cuốn sách, Teabing chỉ tay vào một đoạn văn. "Phúc âm của Philip bao giờ cũng là điểm khởi đầu tốt".
Sophie đọc to đoạn văn lên: "Và người bạn đồng hành của Chúa Cứu thế chính là Mary Magdalene. Christ yêu nàng hơn tất cả những tông đổ của mình, và thường hôn lên miệng nàng. Những tông đồ khác lấy thế làm điều xúc thạm và bày tỏ sự phản đối. Họ nói với Chúa: "Tại sao Ngài lại yêu cô ta hơn cả chúng con".
Lời chữ ấy khiến Sophie ngạc nhiên, nhưng xem ra hầu như không khắng định gì. "Đoạn này chẳng nói gì đến hôn nhân". "Au contrare"(2), Teabing mỉm cười rồi chỉ tay vào dòng đầu tiên, "bất kỳ nhà nghiên cứu ngôn ngữ Aram nào cũng sẽ nói cho cô biết, thời đó, từ bạn đồng hành nghĩa đen là vợ hoặc chồng".
Langdon gật đầu đồng tình.
Sophie đọc lại dòng đầu tiên. Và người bạn đồng hành của Chúa Cứu thế chính là Mary Magdalene.
Teabing lật tiếp sang trang và chỉ ra một vài đoạn văn khác ngụ ý rõ ràng, trước sự ngạc nhiên của Sophie, rằng Magdalene và Jesus có một mối quan hệ lãng mạn. Khi cô đọc những đoạn văn này, Sophie chợt nhớ đến một tu sĩ phẫn nộ đã đập cửa nhà ông ngoại khi cô còn là một nữ sinh.
"Đây có phải là nhà ông Jacques Saunère không?" Người tu sĩ hỏi, chằm chằm nhìn xuống bé Sophie khi cô mở cửa. "Ta phải nói chuyện với ông ấy về cái bài xã luận mà ông ấy đã viết", Người tu sĩ giơ một tờ báo lên.
Sophie mời ông ngoại ra, và hai người đàn ông biến vào trong phòng làm việc rồi đóng cửa lại. Ông mình viết điều gì trên báo nhỉ? Sophie lập tức chạy tới nhà bếp và lật tờ báo sáng. Cô bé tìm thấy tên của ông ngoại ờ một bài báo trong trang hai.
Cô bé đọc bài báo. Sophie không hiểu tất cả, nhưng có vẻ như, dưới áp lực của các tu sĩ, chính phủ Pháp đã đồng ý cấm một bộ phim Mỹ được gọi là Cám dỗ cuối cùng của Christ nói về chuyện Jesus có quan hệ với một cô gái tên là Mary Magdalene Bài báo của ông cô nói rằng Giáo hội quá ngạo mạn và sai lầm khi đòi cấm bộ phim ấy. Thảo nào ông cha cô phát khùng, Sophie nghĩ bụng.
"Đó là phim con heo? Tội phạm thánh!" Người tu sĩ gào lên, ra khỏi phòng làm việc của ông cô rồi lao ra cửa chính. "Làm sao ông có thể chấp nhận điều đó được! Tay người Mỹ Martin Scorsese là một kẻ báng bổ, và Giáo hội sẽ không cho phép hắn chầu lễ tại Pháp đâu!" Người tu sĩ đóng sầm cửa lại trên đường ra khỏi nhà.
Khi ông ngoại vào nhà bếp và thấy Sophie đang cầm tờ báo, ông cau mày. "Cháu cũng khá nhanh đấy".
Sophie trả lời: "Ông nghĩ Jesus Christ có một người tình?".
"Không, cháu yêu, ông chỉ nói: không nên để Nhà Thờ được phép bảo chúng ta những ý tưởng nào là có thể ấp ủ hay cấm kị".
"Jesus có một người tình hay không?".
Ông cô im lặng hồi lâu rồi bất chợt hỏi: "Nếu có thì có là xấu không?".
Sophie nghĩ một lúc rồi nhún vai trả lời: "Cháu sẽ không phản đối".
Ngài Leigh Teabing vẫn tiếp tục nói: "Tôi sẽ không làm cô chán ngấy với vô số những tham chiếu về cuộc hợp nhất của Jesus và Magdalene. Điều đó đã được các sử gia hiện đại khảo sát đến phát buồn nôn. Tuy nhiên, tôi muốn vạch ra điều sau đây". Ông chỉ tay vào một đoạn khác. "Đoạn này trích từ Phúc âm của Mary Magdalene".
Sophie chưa bao giờ biết là có một bản phúc âm bằng lời chữ của Mary trên cõi đời này. Cô đọc đoạn văn ấy: Và Peter nói: "Liệu rằng Chúa Cứu thế có thực sự đã nói chuyện với một người đàn bà mà chúng ta không hề hay biết. Liệu chúng ta có phải quay lại và cùng lắng nghe cô ta nói không? Ngài yêu mến cô ta hơn chúng ta thật sao?". Và Levi trả lời: "Này, Peter, anh bao giờ cũng nóng nảy. Giờ đây tôi thấy anh đang đối phó với người đàn bà đó như kẻ thù vậy. Nếu Chúa Cứu thế thấy người đàn bà xứng đáng để chọn thì anh thực sự là cái thá gì mà bác bỏ cô ta? Chắc chắn Chúa Cứu thế biết rất rõ về người đàn bà này. Đó là lý do Người yêu mến cô ấy hơn chúng ta".
"Người đàn bà mà họ nhắc đến", Teabing giải thích, "là Mary Magdalene. Peter ghen tị với bà ấy".
"Bởi vì Jesus yêu mến Mary hơn à?".
"Không chỉ có thể. Cái được-mất ở đây còn lớn tình yêu đơn thuần, lớn hơn nhiều. Tới điểm này trong các Phúc âm, Jesus đã ngờ ngợ rằng chẳng bao lâu nữa Người sẽ bị bắt và đóng đinh câu rút. Vậy nên Người mới dặn dò Magdalene phải duy trì Giáo hội của Người như thế nào sau khi Người qua đời. Và kết quả là, Peter tỏ ra rất bất mãn vì phải phụ tá cho một người đàn bà. Tôi dám nói rằng Peter có chút phân biệt giới tính".
Sophie cố gắng theo cho kịp: "Đây chính là Thánh Peter. Hòn đá tảng mà Jesus đã xây dựng Giáo hội của Người trên đó".
"Chính ông ta, ngoại trừ một điểm khúc mắc. Theo những phúc âm không bị chỉnh sửa này, người được Christ chỉ đạo để tạo lập Giáo hội Thiên Chúa giáo không phải là Peter mà chính là Mary Magdalene".
Sophie nhìn Teabing: "Ông nói rằng Giáo hội Thiên chúa giáo đã có thể được giao lại cho một người đàn bà?".
Đó chỉ là theo dự kiến. Jesus là người đầu tiên bảo vệ nữ quyền. Người chủ định đặt tương lai Giáo hội vào tay Mary Magdalene".
"Và Peter đã rất bực bội về điều này", Langdon vừa nói vừa chỉ tay vào bức hoạ Bữa ăn tối cuối cùng. "Kia chính là Peter. Cô có thể thấy Da Vinci biết rất rõ Peter có ác cảm với Mary Magdalene".
Một lần nữa Sophie lại không thốt nên lời. Trong bức tranh, Peter ngả người đầy vẻ đe doạ về phía Mary Magdalene và dứ bàn tay như lưỡi dao ngang cổ bà. Cử chỉ đe doạ này cũng giống như trong tác phẩm Madonna of the Rocks!
"Và đây nữa", Langdon vừa nói vừa chỉ tay vào đám tông đồ ngồi gần Peter, "không phải là một điềm gở hay sao?".
Sophie nheo mắt và nhận thấy một bàn tay giơ lên từ trong đám tông đồ: "Có phải bàn tay đó đang vung một con dao găm không?".
"Đúng vậy. Kì lạ hơn nữa, nếu cô đếm những cánh tay, cô sẽ nhận ra rằng, bàn tay này không thuộc về…bất kỳ ai có mặt trong bức tranh. Nó tách rời cơ thể. Khuyết danh".
Sophie bắt đầu cảm thấy ngợp: "Xin lỗi, tôi vẫn chưa hiểu làm sao tất cả những chuyện này lại dẫn đến chỗ khiến Mary Magdalene trở thành Chén Thánh".
"Aha!" Teabing một lần nữa lại thốt lên. "Cái khó là ở chỗ đó! Ông ta một lần nữa quay lại chiếc bàn và lôi ra một sơ đồ khá rộng rồi trải nó ra trước mặt Sophie. Đó chính là một sơ đồ phả hệ rất tỉ mỉ. "Ít người nhận chân được rằng Mary Magdalene, ngoài việc là cánh tay phải của Jesus, còn là một người phụ nữ đầy quyền lực".
Sophie có thể thấy tiêu đề của cây phả hệ đó.
BỘ LẠC BENJAMIN
"Mary Magdalene ở đây", Teabing nói, chỉ tay gần vào đỉnh cây phả hệ.
Sophie ngạc nhiên: "Bà ấy là người của dòng họ Benjamin sao?".
"Quả vậy", Teabing nói tiếp, "Mary Magdalene có dòng dõi hoàng gia".
"Nhưng tôi lại có cảm giác rằng Magdalene là người nghèo".
Teabing lắc đầu: "Người ta đã biến Magdalenen thành một con điếm để xóa bỏ bằng chứng về những mối quan hệ huyết thống đầy quyền lực của bà".
Sophie thấy mình một lần nữa lại liếc sang Langdon, và Langdon lại gật đầu. Cô quay lại Teabing: "Nhưng tại sao Giáo hội ban đầu lại quan ngại nếu như Magdalene thuộc dòng máu hoàng gia?".
Teabing mỉm cười: "Ôi con gáỉ của ta, huyết thống hoàng gia của bà không làm cho Giáo hội lo sợ bằng vỉệc bà chung sống với Jesus, mà Jesus cũng có dòng máu hoàng gia. Như cô biết, Sách Phúc âm của Matthew cho chúng ta hay Jesus là người của dòng họ David. Một hậu duệ của đức vua Solomon - vua của người Do Thái. Bằng việc kết hôn với người thuộc dòng họ Benjamin đầy quyền lực, Jesus đã kết nối hai dòng họ hoàng gia lại với nhau, tạo ra một liên minh chính trị hùng mạnh với khả năng đưa ra yêu sách chính đáng đòi quyền kế vị ngôi báu và khôi phục dòng vua truyền nối như dưới thời Solamon".
Sophie cảm thấy cuối cùng Teabing cũng đi đến điểm chính.
Lúc này, trông Teabing có vẻ rất phấn khích: "Truyền thuyết về Chén Thánh là một truyền thuyết về dòng máu hoàng gia.
Khi truyền thuyết về Chén Thánh nói đến "chiếc ly hứng máu của Christ"…thực ra là nói về Magdalene - cái tử cung mang dòng máu hoàng gia của Jesus".
Những lời đó dường như vang khắp phòng khiêu vũ và dội trở lại trước khi đầu óc Sophie kịp ghi nhận. Mary Magdalene đã mang trong người dòng máu hoàng gia của Jesus Christ? "Nhưng bằng cách nào Christ có được dòng máu ấy trừ phi…?", Cô dừng lại và nhìn Langdon.
Langdon mỉm cười dịu dàng: "Trừ phi họ có con với nhau".
Sophie đứng sững sờ.
"Nhìn đây", Teabing tuyên bố, "bí mật lớn nhất trong lịch sử loài người. Jesus không chỉ kết hôn mà Người còn là một người cha. Bạn thân mến, Mary Magdalene là Chén Thánh linh thiêng.
Bà là chiếc ly mang trong mình dòng máu của Jesus Christ. Bà là chiếc tử cung mang dòng dõi của Jesus, và cây nho từ đó nẩy sinh những trái quả thiêng!".
Sophie cảm thấy sởn da gà: "Nhưng làm sao một bí mật lớn như thế lại có thể giữ im ỉm trong suốt chừng ấy năm?".
"Ôi trời?" Teabing nói. "Nó tuyệt nhiên khong hề im ỉm. Dòng dõi hoàng gia của Jesus Christ là nguồn gốc của truyền thuyết lâu bền nhất của mọi thời đại - Chén Thánh. Trong nhiều thế kỉ, câu chuyện về Magdalene đã vang vọng tới khắp hang cùng ngõ hẻm thể hiện trong mọi loại ẩn dụ và ngôn ngữ. Câu chuyện về bà hiện diện ở khắp mọi nơi, một khi cô mở to mắt mà nhìn!".
"Thế còn những tài liệu Sangreal?" Sophie nói. "Người ta bảo chúng chứa đựng bằng chứng rằng Jesus có dòng máu hoàng gia phải không?".
"Đúng thế".
"Vậy là toàn bộ truyền thuyết Chén Thánh là về dòng máu hoàng gia?".
"Hoàn toàn chính xác", Teabing nói, "Từ Sangreal phát sinh từ San Greal - tức là Chén thánh. Nhưng ở trong dạng cổ xưa nhất, từ Sangreal lại phân chia ở một điểm khác". Teabing viết lên một mảnh giấy lộn rồi đưa cho Sophie.
Sophie đọc dòng chữ Teabing vừa mới viết.
Sang Real
Cuối cùng, Sophie cũng nhận ra được sự chuyển dịch ấy.
Sang Real nghĩa đen là Dòng máu hoàng gia. Chú thích: (1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: phòng làm việc. (2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Trái lại.
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853
Nam nhân viên lễ tân ở sảnh của trụ sở Opus Dei trên đại lộ Lexington, thành phố New York, ngạc nhiên khi nghe thấy giọng của giám mục Aringarosa trên điện thoại. "Xin chào ngài".
"Tôi có tin nhắn gì không?" Giám mục hỏi bằng giọng lo lắng một cách khác thường.
"Có thưa ngài. Tôi rất mừng thấy ngài gọi về. Tôi đã gọi đến nhà mà không gặp được ngài. Ngài có một tin nhắn khẩn cấp qua điện thoại khoảng nửa tiếng đồng hồ trước đây".
"Thật hả?" ông có vẻ nhẹ cả người khi nghe tin đó. "Thế người gọi có để lại tên không?".
"Không, thưa ngài, họ chỉ để lại số thôi", người nhân viên tổng đài chuyển số.
"Mã 33 à? Đó là mã của nước Pháp, đúng không?".
"Vâng thưa ngài, đó chính là mã của Paris. Người gọi nhắn lại rằng ngài rất cần liên lạc với họ ngay lập tức".
"Cám ơn. Tôi đang chờ cuộc gọi này". Aringarosa nhanh chóng cúp máy.
Trong khi gác ống nghe, nhân viên lễ tân tự hỏi tại sao đường dây điện thoại của Aringarosa lại lạo xạo đến thế. Thời gian biểu hàng ngày của giám mục cho thấy ông đang ở New York trong tuần này nhưng có vẻ như ông đang ở tận đầu kia thế giới. Người phục vụ nhún vai. Trong những tháng gần đây, giám mục Aringarosa hành xử rất kì lạ. Máy di động của ta chắc đã không nhận được tin, Aringarosa nghĩ khi chiếc Fiat đến gần lối ra của sân bay Ciampino Charter tại Roma. Thầy Giáo đang cố tìm gặp mình đây. Mặc dù e ngại vì đã lỡ mất cuộc gọi quan trọng đó, Arinbarosa vẫn thấy phấn khởi vì Thầy Giáo cảm thấy đủ tin cậy để gọi thẳng đến trụ sở Opus Dei. Mọi chuyện hẳn phải diễn ra tốt đẹp ở Paris hôm nay.
Khi Aringarosa bắt đầu bấm số, ông cảm thấy phấn chấn khi biết rằng ông sẽ sớm ở Paris. Ta sẽ hạ cánh trước bình minh. Một chiếc máy bay phản lực thuê riêng đang chờ để chở Aringarosa trên chuyến bay ngắn tới Pháp. Máy bay thương mại không phải là một lựa chọn vào giờ này, nhất là xét những gì chứa bên trong chiếc cặp số của ông.
Điện thoại reo.
Một giọng nữ đáp: "Direction Centrale Police Judiciaire"(1).
Aringarosa cảm thấy mình ngần ngừ. Điều này thật bất ngờ.
"À vâng…người ta yêu cầu tôi gọi theo số máy này đúng không?". "Qui etes-vous?"(2), người phụ nữ hỏi: "Tên ông là gì?".
Aringarosa phân vân không biết có nên xưng tên hay không. Cảnh sát tư pháp của Pháp.
"Tên của ông?", Người phụ nữ nhấn mạnh.
"Giám mục Manuel Aringarosa". "Un moment"(3).Có tiếng cách trên đường dây.
Sau hồi chờ đợi, một người đàn ông khác tiếp máy, giọng thô kệch và lo lắng: "Thưa giám mục, tôi rất mừng vì cuối cùng tôi cũng tiếp cận được ngài. Ngài và tôi có nhiều điều để bàn". Chú thích: (1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Cục Cảnh sát tư pháp trung ương. (2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: ông là ai? (3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Xin chờ một lát.
Chương 60
Sangreal…Sang Real…San Greal…Dòng máu hoàng gia Chén Thánh.
Tất cả cứ xoắn quện với nhau.
Chén Thánh chính là Mary Magdalene… người mẹ của dòng máu hoàng gia của Jesus Christ. Sophie cảm thấy một đợt lạc hướng mới khi cô đứng trong tĩnh lặng của phòng khiêu vũ và đăm đăm nhìn Robert Langdon. Langdon và Teabing càng đặt thêm nhiều mảnh lên bàn thì trò đố chắp hình lại càng trở nên không thể đoán được.
"Như bạn thấy đấy, bạn thân mến", Teabing nói, tập tễnh tiến về phía giá sách, "Leonnardo không phải là người duy nhất cố gắng nói với thế giới sự thật về Chén Thánh. Hàng mấy chục nhà sử học đã ghi chép hết sức chi tiết về dòng máu hoàng gia của Jesus vào sử biên niên". Ông lướt ngón tay lên gáy một dãy hàng tá sách.
Sophie nghiêng đầu, điểm các tiêu đề:
KHẢI HUYỀN TEMPLAR Những người bí mật bảo vệ nhân thân đích thực của Christ.
NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI CHIẾC BÌNH NGỌC THẠCH. Mary Magdalence và Chén Thánh.
NỮ THẦN TRONG SÁCH PHÚC ÂM. Đòi lại tính nữ thỉêng liêng. "Có lẽ đây là bộ sách nổi tiếng nhất", Teabing nói, lôi từ đống sách ra một quyển bìa cứng rách nát và đưa cho cô.
Ngoài bìa in dòng chữ:
DÒNG MÁU THIÊNG LIÊNG, CHÉN THÁNH. Ấn phẩm quốc tế bán chạy nhất rất được tán thưởng.
Sophie ngước mắt lên: "Ấn phẩm quốc tế bán chạy nhất? Sao tôi chưa bao giờ nghe nhắc đến nó".
"Khi đó cô còn bé. Quyển sách này đã gây náo động trong những năm 1980. Theo khẩu vị của tôi, các tác giả đã đưa ra một số tín niệm đáng ngờ khó chứng minh được trong phân tích của họ, nhưng giả thuyết cơ bản thì rất hợp lí, và chung cuộc, họ đã thực hiện được việc đưa ý tưởng về dòng máu của Christ vào dòng chủ lưu".
"Nhà Thờ phản ứng thế nào với cuốn sách?".
"Bị xúc phạm, tất nhiên. Nhưng điều đó không có gì là bất ngờ. Nói cho cùng, đó là bí mật mà Vatican cố chôn vùi vào thế kỷ thứ tư. Đó chính là một phần của cái mà các cuộc Thập Tự Chinh nhằm tới. Thu gom và tiêu huỷ thông tin. Mối đe doạ từ Mary Magdalene đối với những người của Giáo hội sơ khởi ẩn chứa sự phá huỷ tiềm tàng. Bà không chỉ là người phụ nữ được Jesus ký thác nhiệm vụ thành lập Giáo hội mà còn là bằng chứng vật thể rằng vị thiên chúa mới tấn phong của nhà thờ đã sinh ra dòng máu trần tục. Giáo hội, để tự bảo vệ chống lại sức mạnh của Magdalene, đã bôi nhọ vĩnh viễn hình ảnh của bà như một gái điếm và chôn vùi những bằng chứng về cuộc hôn phối giữa Christ và bà, do đó đã tháo ngòi nổ bất cứ lời tuyên bố nào về việc Christ có một huyết thống vẫn tiếp tục tồn tại và là một nhà tiên tri trần tục".
Sophie ngước nhìn Langdon, ông gật đầu: "Sophie, những bằng chứng lịch sử khắng định điều này là rất nhiều".
"Tôi thừa nhận rằng", Teabing nói, "những điều khẳng định nói trên là kinh khủng, nhưng cô nên biết rằng Giáo hội có những động cơ rất mạnh mẽ để tiến hành sự che giấu này. Họ tất không thể tồn tại sau khi công chúng biết là có một huyết thống từ Christ. Một người con của Jesus sẽ hủy hoại ý niệm về tính thiên giới của Christ và do đó hủy hoại cả Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo vốn tự xưng là nguồn mạch duy nhất qua đó nhân loại có thể tiếp cận với thiên giới và tìm được đường vào nước thiên đàng".
"Bông hoa hồng năm cánh", Sophie nói, đột nhiên chỉ vào gáy một quyển sách của Teabing. Hệt như hoa văn khảm trên chiếc hộp bằng gỗ hồng mộc.
Teabing liếc nhìn Langdon, nhoẻn miệng cười: "Cô ấy có con mắt rất tinh đời". Ông quay lại phía Sophie. "Đó là biểu tượng của Tu viện Sion để chỉ Chén Thánh. Mary Magdalene. Vì Nhà Thờ cấm nhắc đến tên bà nên Mary Magdalene được bí mật biết đến dưới nhiều bí danh khác nhau - Cốc rượu Thánh - Chén Thánh và Hoa Hồng". Ông ngừng lại. "Hoa Hồng có những mối liên hệ với hình sao năm cánh của thần Venus và la bàn Hoa Hồng chỉ hướng. Nhân tiện xin lưu ý, từ rose (hoa hồng) là y như nhau trong tiếng Anh, Pháp, Đức và nhiều ngôn ngữ khác nữa".
"Rose - Hoa Hồng", Langdon bổ sung thêm, "cũng là dạng đảo chữ của từ Eros, thần tình dục trong thần thoại Hy Lạp".
Sophie nhìn Langdon ngạc nhiên trong khi Teabing nói tiếp: "Hoa Hồng luôn luôn là biểu tượng đầu tiên của tính dục nữ. Trong tục lệ thờ nữ thắn thời nguyên thuỷ, năm cánh hoa đại diện cho năm chặng trong cuộc đời người nữ: ra đời, bắt đầu có kinh, làm mẹ, mãn kinh và chết. Thời nay, liên hệ giữa một bông hoa đang nở với đặc tính đàn bà được nhìn nhận dưới góc độ thị giác nhiều hơn". Ông liếc nhìn Robert: "Có lẽ nhà ký tượng học có thể giải thích điều này rõ hơn?".
Robert ngập ngừng. Một khoảnh khắc dài.
"Ôi trời!". Teabing thở hắt ra. "Người Mỹ các bạn thật hay cả thẹn". Ông quay lại nhìn Sophie. "Điều làm cho Robert lúng túng là việc một bông hoa đang nở giống bộ phận sinh dục của nữ giới, đóa hoa tuyệt diệu mà từ đó toàn nhân loại bước vào thế giới. Và nếu cô đã từng xem bất kì bức tranh nào của Georgia O'Keeffe(1), cô sẽ biết chính xác tôi định nói gì".
"Vấn đề ở đây", Langdon nói, chỉ về phía giá sách, "là tất cả những cuốn sách này đều chứng minh cùng một lời khắng định mang tính lịch sử". "Rằng Jesus là một người cha?" Sophie vẫn không chắc chắn lắm.
"Phải", Teabing nói, "và rằng Mary Magdalene đã mang thai giọt máu hoàng gia của Người. Tu viện Sion, đến nay, vẫn thờ Mary Magdalene như một nữ thần, Chén Thánh, Hoa Hồng và Thánh Mẫu".
Sophie bỗng hồi tưởng lại nghi thức diễn ra trong tầng hầm.
"Theo Tu viện Sion", Teabing tiếp tục, "Mary Magdalene có mang vào chính thời điểm Jesus bị đóng đinh câu rút. Vì sự an toàn của đứa con chưa được ra đời, bà không còn cách lựa chọn nào khác là phải trốn khỏi Đất Thánh. Với sự giúp đỡ của người bác đáng tin cậy của Jesus, Joseph, Joseph xứ Arimathea, Mary Magdalene đã bí mật tới Pháp, rồi lấy tên Gaul. Bà tìm thấy một nơi trú ẩn an toàn trong cộng đồng người Do Thái. Chính tại đây trên đất Pháp, bà đã sinh một bé gái đặt tên là Sarah".
Sophie ngước lên: "Họ thực sự biết tên của đứa trẻ ư?".
"Còn hơn thế nữa. Những người Do Thái bảo vệ Magdalene và Sarah đã ghi chép hết sức tỉ mỉ cuộc sống của họ. Hãy nhớ rằng con của Magdalene thuộc dòng dõi các vua của người Do Thái - David và Solomon. Vì lý do đó, người Do Thái ờ Pháp coi Magdalene là thuộc hoàng tộc thiêng liêng và tôn thờ bà như là tổ mẫu dòng máu hoàng gia của các vị vua. Vô số học giả thời đó đã ghi chép về thời kì Mary Magdalene ở Pháp, bao gồm cả sự ra đời của Sarah và gia phả sau này".
Sophie giật mình: "Có cây gia hệ của Jesus Christ ư?".
"Đúng thế. Và nó là một trong những nền tảng của tài liệu Sangreal. Một bảng phả hệ hoàn chỉnh về con cháu dòng dõi của Christ".
"Nhưng một bảng phả hệ trên cơ sở tài liệu về dòng dõi của Christ thì ích gì?" Sophie hỏi. "Nó không thể là bằng chứng. Các nhà sử học không thể khẳng định tính xác thực của tài liệu".
Teabing cười tủm tỉm: "Không nhiều hơn mức mà họ có thể khẳng định là xác thực trong Kinh Thánh".
"Nghĩa là…?".
"Nghĩa là lịch sử bao giờ cũng được viết bởi những kẻ chiến thắng. Khi hai nền văn hoá va chạm nhau, người thua cuộc sẽ bị xóa bỏ, và kẻ chiến thắng sẽ viết những cuốn sách lịch sử - những cuốn sách vinh danh sự nghiệp của chính họ và miệt thị kẻ thù bị chinh phục. Như Napoleon đã có lần nói rằng: "Lịch sử là gì, nếu không phải là một thứ ngụ ngôn được thoả thuận?". Ông cười. "Do bản chất của nó, lịch sử bao giờ cũng là bản tường tnnh thiên lệch về một phía".
Sophie chưa bao giờ nghĩ về lịch sử theo cách ấy.
"Tài liệu Sangreal chỉ đơn giản kể nốt phía kia của câu chuyện về Christ. Cuối cùng, việc bạn tin phía nào của câu chuyện sẽ lại là vấn đề của đức tin và khảo sát cá nhân, nhưng dù gì thì thông tin này cũng đã tồn tại. Những tài liệu Sangreal gồm hàng chục ngàn trang. Các bản tường trình của những nhân chứng về kho báu Sangreal mô tả rằng nó được chở trong bốn chiếc hòm lớn. Nghe đồn trong các hòm đó là những Tài liệu thuần túy - hàng ngàn trang chưa bị sửa đổi từ thời tiền Constantine do các đệ tử ban đầu của Jesus viết, họ tôn kính Người như một bậc thầy và nhà tiên tri hoàn toàn nhân bản.
Cũng theo lời đồn đại thì một phần của kho báu là Tài liệu "Q". huyền thoại - một bản thảo chép tay mà cả Vatican cũng thừa nhận họ tin là đang tồn tại. Người ta cho rằng đó là một quyển sách ghi những lời răn dạy của Jesus, có thể do chính tay Người viết ra".
"Do đích thân Christ viết?".
"Tất nhiên", Teabing nói, "tại sao Jesus lại không ghi biên niên kí về mục sự của Người? Hầu hết mọi người đều làm thế trong những ngày đó. Một tài liệu khác có khả năng gây bùng nổ, mà người ta cho rằng cũng ở trong kho báu đó, là một bản viết tay có tên là Nhật kí Magdalene - trong đó có những ghi chép cá nhân của Mary Magdalene về mối quan hệ của bà với Christ, việc Người bị đóng đinh trên cây thập ác và thời gian bà ở Pháp".
Sophie yên lặng hồi lâu: "Bốn chiếc hòm tài liệu đó có phải là kho báu mà các Hiệp sĩ Templar đã tìm thấy dưới đền thờ Solomon không?".
"Đích thị. Những tài liệu này đã làm cho các Hiệp sĩ Templar hùng mạnh đến vậy. Những tài liệu này đã trở thành đối tượng của vô số các cuộc tìm kiếm Chén Thánh trong suốt lịch sử!".
"Nhưng ông đã nói rằng Chén Thánh chính là Mary Magdalene. Nếu một ai đó tìm kiếm những tài liệu này thì tại sao ông lại gọi đó là cuộc tìm kiếm Chén Thánh?".
Teabing nhìn cô, vẻ mặt dịu đi: "Bởi vì nơi cất giấu Chén Thánh bao gồm một chiếc quan tài đá".
Bên ngoài, gió gào rú trên những ngọn cây.
Giờ đây, Teabing nói bình tĩnh hơn: "Cuộc tìm kiếm Chén Thánh chính xác là cuộc tìm kiếm để quì trước nắm xương tàn của Mary Magdalene. Một cuộc hành trình để cầu nguyện dưới chân kẻ bị ruồng bỏ, cái chất nữ thiêng liêng bị đánh mất".
Sophie cảm thấy một nỗi ngạc nhiên bất ngờ: "Nơi giấu Chén Thánh thực ra là…một ngôi mộ?".
Đôi mắt màu hạt dẻ của Teabing chợt như phủ sương: "Đúng thế. Một ngôi mộ lưu giữ thi thể của Mary Magdalene và những tài liệu kể câu chuyện thực về đời bà. Về cốt lõi, cuộc tìm kiếm Chén Thánh xưa nay bao giờ cũng là cuộc tìm kiếm Magdalene - vị nữ hoàng bị đổ tiếng xấu, bị chôn vùi dưới mộ cùng với những bằng chứng về yêu cầu chính đáng của gia tộc mình đối với quyền lực".
Sophie đợi một lát trong khi Teabing bình tĩnh lại. Rất nhiều điều về ông cô vẫn chưa được làm sáng tỏ. "Các thành viên của Tu viện Sion", cuối cùng cô nói, "suốt những năm qua gánh trách nhiệm bảo vệ tài liệu Sangreal và mộ Mary Magdalene phải không?".
"Phải, nhưng hội kín này còn có một bổn phận khác quan trọng hơn - bảo vệ chính dòng máu hoàng gia. Dòng dõi của Christ luôn luôn bị đe dọa. Giáo hội sơ khởi sợ rằng nếu dòng máu này được phép sinh sôi nẩy nở thì cuối cùng bí mật về Jesus và Magdalene sẽ bị phơi bày và thách thức học thuyết cơ bản của Thiên Chúa Giáo - học thuyết về một Đấng Cứu Thế giáng trần không ăn ở với phụ nữ hay giao hợp". Ông ngừng một lát. "Tuy nhiên, dòng dõi của Christ vẫn âm thầm phát triển bí mật ở Pháp cho đến khi có một bước đột phá táo bạo vào thế kỉ thứ V, khi nó hôn phối với dòng máu hoàng gia Pháp để tạo ra dòng dõi được gọi là dòng dõi vương triều Merovingien".
Tin này làm Sophie ngạc nhiên. Merovingien là một từ mà tất cả các sinh viên ở Pháp đều đã học - "Gia tộc Merovingien lập nên Paris".
"Phải. Đó là một trong những lí do khiến truyền thuyết về Chén Thánh lại phong phú như vậy ở Pháp. Nhiều cuộc tìm kiếm Chén Thánh của Vatican ở Pháp thực chất là những công vụ lén lút nhằm xoá sổ các thành viên của hoàng tộc này. Cô đã bao giờ nghe nói về vua Dagobert chưa?".
Sophie mơ hồ nhớ lại cái tên này từ một câu chuyện ghê rợn trong lớp học lịch sử: "Dagobert là một vị vua thuộc vương triều Merovinge phải không? Ông bị đâm vào mắt trong lúc đang ngủ?".
"Chính xác. Ông bị ám sát bởi Vatican với sự thông đồng với Pepin d' Heristal. Cuối thế kỷ thứ VII. Với vụ mưu sát Dagobert, dòng họ Merovingien hầu như bị tuyệt diệt. May sao, con trai của Dagobert, Sigisbert, đã bí mật trốn thoát khỏi cuộc tấn công và tiếp tục duy trì dòng dõi của mình, sau này dòng họ đã sản sinh Gedefroi de Bouillon - người sáng lập Tu viện Sion".
"Cũng chính con người này", Langdon nói, "đã ra lệnh cho các Hiệp sĩ Templar thu hồi lại tài liệu Sangreal từ bên dưới đền thờ Solomon và do vậy cung cấp bằng chứng về mối liên hệ kế truyền của dòng họ Merovingien với Jesus Christ".
Teabing gật đầu, trút một tiếng thở dài: "Tu viện Sion hiện nay có một nhiệm vụ rất trọng đại. Trách nhiệm của họ có ba phần. Hội kín này phải bảo vệ tài liệu Sangreal. Họ phải bảo vệ ngôi mộ của Mary Magdalene. Và, tất nhiên, họ cũng phải nuôi dưỡng và bảo vệ dòng dõi của Jesus Christ - số ít ỏi thành viên của dòng dõi hoàng gia Merovingien còn sống sót đến ngày nay".
Lời ông lơ lửng trong khoảng không rộng lớn, và Sophie cảm thấy một rung động kì lạ như thể một thứ chân lí mới đang dọi vào đến tận xương cốt cô. Những hậu dụê của Jesus còn tồn tại đến ngày nay. Tiếng ông cô lại như đang thì thầm bên tai cô.
"Công chúa, ta phải nói cho cháu sự thực về gia đình cháu".
Sophie cảm thấy rùng mình. Dòng máu hoàng tộc.
Cô không thể tưởng tượng được. Công chúa Sophie.
***
"Thưa ngài Leigh?" Tiếng người hầu nam vang lên lạo xạo qua hệ thống thông tin nội bộ trên tường, và Sophie giật nảy người. "Ngài có thể gặp tôi trong bếp một lát không?".
Teabing cau mặt vì sự chen ngang không đúng lúc này. Ông đi tới hệ thống thông tin nội bộ và ấn nút: "Rémy, anh biết đấy, tôi đang bận với khách. Nếu đêm nay chúng tôi cần gì khác nữa từ nhà bếp, chúng tôi sẽ tự phục vụ. Cám ơn anh và chúc ngủ ngon".
“Chỉ một lời với ngài thôi trước khi tôi lui, thưa ngài. Nếu ngài vui lòng".
Teabing càu nhàu và ấn nút. "Vậy thì nhanh lên, Rémy".
"Chỉ là vấn đề trong nhà thôi, thưa ngài, không đáng để các vị khách phải nghe".
Teabing có vẻ hoài nghi: "Không thể để đến sáng mai được ư?".
"Không, thưa ngài. Câu hỏi của tôi không mất đến một phút đâu".
Teabing tròn mắt nhìn Langdon và Sophie: "Thỉnh thoảng, tôi cứ tự hỏi không biết ai đang phục vụ ai đây?". Ông lại ấn nút. "Tôi sẽ đến ngay, Rémy. Tôi có thể mang đến cho anh cái gì không?".
"Chỉ cần giải phóng khỏi áp bức thôi, thưa ngài".
"Rémy, anh biết rằng món steak au poivre (2) của anh là lí do duy nhất để anh vẫn làm việc cho tôi".
"Tôi biết rồi, khổ lắm, ngài cứ nói mãi". Chú thích: (1) Georgia O' Keeffe (1887-1986), nữ danh họa Mỹ chuyên vẽ hoa. Trong tác phẩm của bà, hoa luôn được đồng nhất với bộ phận sinh dục của đàn bà. (2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: bí tết hạt tiêu
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853
Công chúa Sophie.
Sophie cảm thấy trống rỗng khi lắng nghe tiếng nạng lách cách của Teabing nhỏ dần trong hành lang. Tê dại, cô quay lại và đối mặt với Langdon trong phòng khiêu vũ vắng tanh. Ông lắc đầu như thể đọc thấy ý nghĩ của cô.
"Không, Sophie", ông thầm thì, đôi mắt vỗ về trấn an, "cũng ý nghĩ đó đến trong đầu tôi khi tôi hiểu ra rằng ông cô cũng ở trong Tu viện Sion, và cô nói rằng ông muốn nói cho cô nghe một bí mật về gia tộc cô. Nhưng điều đó là bất khả". Langdon ngừng lại một lát. "Saunière không phải là một họ thuộc hệ Merovingien".
Sophie không biết chắc mình nên cảm thấy nhẹ nhõm hay thất vọng. Trước đó, Langdon có hỏi qua một câu không bình thường về cái tên thời con gái của mẹ cô. Chauvel. Bây giờ, cô mới hiểu tại sao ông hỏi vậy. "Còn cái tên Chauvel?" Cô hỏi một cách lo lắng.
Ông lại lắc đầu: "Tôi rất tiếc. Tôi biết điều đó sẽ giải đáp một vài câu hỏi cho cô. Chỉ có hai nhánh trực hệ của dòng họ Merovingien là còn duy trì. Hai họ đó là Plantard và Saint-Clair.
Cả hai tộc này vẫn sống lẩn trốn, có lẽ dưới sự che chở của Tu viện Sion".
Sophie thầm nhắc lại những họ này trong óc rồi lắc đầu.
Không một ai trong gia đình cô mang họ Plantard hay Saint-Clair. Một con sóng ngầm mệt mỏi như đang co kéo cô. Cô chợt nhận ra, so với lúc ở Louvre, cô vẫn chưa tiến gần thêm tới cái đích là hiểu xem sự thật mà ông cô muốn tiết lộ cho cô biết là cái gì. Sophie ước gì ông cô chưa bao giờ nhắc tới gia đình cô chiều hôm đó. Ông đã khơi mở lại những vết thương cũ tới nay vẫn còn đau đớn như bao giờ. Họ đã chết Sophie. Họ không thể quay trở lại. Cô chợt nghĩ đến người mẹ hằng đêm hát ru cô ngủ, người bố kiệu cô trên vai, người bà và đứa em trai đang cười với cô với đôi mắt xanh nồng nhiệt. Tất cả đã bị cướp mất. Chỉ còn lại độc trọi người ông.
Và bây giờ ông cũng đã ra đi. Còn trơ lại một mình mình.
Sophie lặng lẽ quay trở lại bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng, chăm chú nhìn mái tóc đỏ dài và đôi mắt tĩnh lặng của Magdalene. Có một cái gì đó trong vẻ mặt của người phụ nữ gợi đến nỗi mất mát một người thân yêu. Sophie cũng cảm thấy điều đó.
"Robert?" Cô khẽ gọi.
Ông bước lại gần.
"Tôi biết Leigh nói rằng câu chuyện về Chén Thánh ở khắp quanh ta, nhưng tối nay là lần đầu tiên tôi nghe thấy những điều này".
Langdon có vẻ như muốn đặt một bàn tay an ủi lên vai cô nhưng tự kiềm chế lại: "Cô đã nghe câu chuyện về bà ấy trước đây, Sophie. Tất cả mọi người đều đã nghe. Có điều, khi nghe, chúng ta không nhận chân ra đấy thôi".
"Tôi không hiểu".
"Chuyện Chén Thánh có ở tất cả mọi nơi nhưng bị che giấu. Khi Nhà Thờ cấm nói về việc Mary Magdalene bị xa lánh thì câu chuyện và tầm quan trọng của bà ấy lại được lưu truyền qua những kênh kín đáo hơn… những kênh nuôi dưỡng phép ẩn dụ và chủ nghĩa tượng trưng".
"Tất nhiên. Các môn nghệ thuật".
Langdon chỉ bức Bữa ăn tối cuối cùng: "Một ví dụ hoàn hảo. Một số tác phẩm mỹ thuật, văn học, âm nhạc lâu bền nhất còn lại cho đến ngày nay đã kín đáo kể lại câu chuyện giữa Mary Magdalene và Jesus".
Langdon kể nhanh cho cô nghe về những tác phẩm của Da Vinci Botticelli, Poussin, Bernini, Mozart và Victor Hugo, tất cả đều thầm thì điều gì đó về cuộc tìm kiếm để phục hồi lại địa vị cho người phụ nữ thần thánh bị xua đuổi. Những truyền thuyết trường tồn như Ngài Gawain và Hiệp sĩ Green, Vua Arthur và nàng công chúa ngủ trong rừng. đều là những ngụ ngôn về Chén Thánh. Tác phẩm Thằng gù ở nhà thờ Đức Bà của Victor Hugo và Cây sáo kỳ diệu, của Mozart đầy những biểu tượng của hội Tam Điểm và bí mật Chén Thánh.
"Một khi cô mở mắt mở lòng với Chén Thánh", Langdon nói, "cô sẽ thấy Magdalene hiện diện ở khắp nơi. Hội hoạ, âm nhạc, sách. Thậm chí cả trong phim hoạt hình, công viên giải trí theo chủ đề và những bộ phim nổi tiếng".
Langdon đưa chiếc đồng hồ chuột Mickey ra làm ví dụ và nói với cô rằng Walt Disney đã xác định sự nghiệp của cuộc đời lặng lẽ của mình là lưu truyền câu chuyện Chén Thánh cho các thế hệ tương lai. Trong suốt toàn bộ cuộc đời mình, Disney đã được hoan nghênh như một "Leonardo Da Vinci hiện đại". Cả hai đã đi trước thời đại của họ tới mấy thế hệ, là những nghệ sĩ có tài năng vô song, hội viên của những hội kín, và đáng chú ý nhất, những người ham thích đùa nghịch. Giống như Leonardo, Walt Disney rất thích lồng những thông điệp và biểu tượng ẩn tàng vào trong nghệ thuật của mình. Đối với những nhà kí tượng học được đào tạo, xem một bộ phim của Disney cũng giống như đứng trước một con thác ào ào những ám chỉ và ẩn dụ.
Hầu hết những thông điệp ẩn giấu của Disney đều liên quan tới tôn giáo, huyền thoại thế tục và những câu chuyện về nữ thần bị khuất phục. Đâu phải vì lầm lẫn mà Disney đã kể lại theo cách mới những câu chuyện như Lọ Lem, Nàng công chúa ngủ trong rừng và Bạch Tuyết - tất cả đều đề cập đến việc hạ ngục tính nữ thiêng liêng. Cũng không cần thiết phải có kiến thức về chủ nghĩa tượng trưng để hiểu được rằng Bạch Tuyết - nàng công chúa bị thất sủng sau khi ăn quả táo tẩm độc - là một ám chỉ rành rành đến sự sa ngã của Eve trong vườn Địa đàng. Hoặc trong Người đẹp ngủ trong rừng, Công chúa Aurora - mật danh là "Hoa Hồng" - được che giấu trong rừng để bảo vệ nàng khỏi nanh vuốt của mụ phù thuỷ độc ác, chính là câu chuyện Chén Thánh cho trẻ con.
Mặc dù hình ảnh mang tính tập thể, hãng Disney vẫn có được một yếu tố khôn ngoan và tinh nghịch trong các nhân viên và các hoạ sĩ của họ vẫn tiêu khiển bằng cách lồng những biểu tượng ẩn giấu vào trong các sản phẩm Disney. Langdon sẽ không bao quên chuyện một sinh viên của ông mang đến lớp một đĩa DVD phim hoạt hình Vua sư tử và cho dừng hình để chỉ ra một khuôn hình tĩnh trong đó từ *** (giới tính, tình dục) hiện rõ mồn một, được tô đậm bởi đám bụi bồng bềnh trên đầu của Simba. Mặc dầu Langdon ngờ rằng đấy chỉ là trò tinh nghịch kiểu học sinh của một nhà làm phim hoạt hình chứ không phải bất kì cách bóng gió thông minh nào nhằm vào dục tính thế tục của con người, ông cũng đã học được cách không đánh giá thấp khả năng nắm vững biểu tượng của Disney. Nàng tiên cá là một tấm thảm hút hồn với những biểu tượng tâm linh liên quan với giới nữ thần một cách cụ thể đến nỗi không thể là trùng hợp ngẫu nhiên được.
Lần đầu tiên xem Nàng tiên cá, Langdon đã thực sự hức lên thành tiếng khi nhận thấy bức tranh trong ngôi nhà dưới nước của Ariel không phải là gì khác ngoài tác phẩm Magdalene sám hối của hoạ sĩ Georges de la Tour thế kỷ XVII - một sự tôn vinh trứ danh dành cho Mary Magdalene - một nét trang trí phù hợp vì bộ phim dài chín mươi phút này hoá ra là một tác phẩm collage với những biểu tượng rành rành quy chiếu về tính thần thánh bị tước đoạt của những Isie, Eva, Pisces, và lặp đi lặp lại nhiều lần, Mary Magdalene. Tên của nàng tiên cá, Ariel, có những ràng buộc chặt chẽ với tính nữ thiêng liêng và, trong Sách của Isaiah, nó đồng nghĩa với "Thánh địa bị bao vây". Tất nhiên, mái tóc đỏ mềm mại của nàng tiên cá chắc chắn cũng không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Tiếng nạng lách cách của Teabing trong hành lang tiến lại gần, bước chân ông nhanh nhẹn một cách không bình thường. Khi chủ nhân bước vào phòng làm việc, vẻ mặt ông nghiêm nghị.
"Anh nên có lời giải thích, Robert", Teabing lạnh lùng nói, "Anh đã không trung thực với tôi". Chương 62
"Tôi bị oan, Leigh", Langdon nói, cố gắng giữ bình tĩnh, "Ngài biết rõ con người tôi mà. Tôi không phải hạng giết người".
Giọng Teabing không hề dịu đi: "Robert, anh đang trên tivi, lạy Chúa. Anh có biết nhà chức trách đang truy lùng anh không? Anh đã lạm dụng lòng tin của tôi. Tôi rất ngạc nhiên là anh nỡ đặt tôi vào tình thế nguy hiểm bằng cách đến đây và đòi tôi nói lan man về Chén Thánh để anh có thể ẩn náu trong nhà tôi".
"Tôi không giết ai cả".
"Jacques Saunière đã chết, và cảnh sát nói rằng anh làm điều đó", Teabing nói, vẻ buồn bã. "Một người đóng góp cho nghệ thuật như vậy mà…".
"Thưa ngài?" Người hầu lúc này đã xuất hiện, đứng ngay sau Teabing trong khung cửa phòng làm việc, cánh tay khoanh lại.
"Tôi chỉ cho họ lối ra chứ?".
"Để tôi", Teabing tập tễnh bước ngang qua phòng làm việc, mở khóa một loạt cánh cửa kính lớn; cửa mở chúng ra một bãi cỏ cạnh nhà. "Hãy lấy xe của anh, và đi đi!".
Sophie không hề nhúc nhích: "Chúng tôi có thông tin về clef de voute - viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion".
Teabing nhìn cô chằm chằm trong vài giây và cười giễu cợt:
"Một mánh khoé vớt vát. Robert biết tôi đã tìm kiếm nó như thế nào".
"Cô ấy nói thật đấy", Langdon nói. "Đó là lí do tại sao chúng tôi đến gặp ngài tối nay. Để nói cho ngài biết về viên đá đỉnh vòm".
Người quản gia xen vào: "Đi đi, kẻo tôi sẽ gọi nhà chức trách".
"Leigh", Langdon thì thầm, "chúng tôi biết nó ở đâu".
Teabing hơi ngập ngừng.
Rémy cứng cỏi dấn bước ngang qua căn phòng: "Đi ngay? Kẻo tôi buộc…".
"Rémy?", Teabing quay lại, gắt người quản gia. "Hãy để riêng chúng tôi một lát".
Người phục vụ há hốc mồm: "Thưa ngài? Tôi buộc phải phản đối những người này…".
"Tôi sẽ xử lý việc này", Teabing chỉ ra phía hành lang.
Sau một lát im lặng sửng sốt, Rémy lủi ra như một con chó bị xua đuổi.
Làn gió mát nhẹ buổi tối ùa vào qua cánh cửa mở rộng, Teabing quay lại phía Sophie và Langdon, vẻ mặt vẫn cảnh giác:
"Tốt hơn là hãy biết điều. Các bạn biết gì về viên đá đỉnh vòm?".
***
Trong bụi cây dầy bên ngoài phòng làm việc của Teabing, Silas nắm chặt khẩu súng lục và nhìn chằm chằm qua cánh cửa kính.
Chỉ cách đây một lát thôi, hắn đã đi vòng quanh ngôi nhà và thấy Langdon cùng người phụ nữ đang trò chuyện trong phòng làm việc rộng thênh thang. Trước khi hắn kịp vào trong, một người đi nạng đã bước vào, lớn giọng với Langdon, mở cửa và yêu cầu các vị khách rời đi. Sau đó người phụ nữ nhắc tới viên đá đỉnh vòm, và tất cả mọi sự đã thay đổi. Tiếng quát tháo biến thành những tiếng thầm thì. Bầu không khí dịu xuống. Và những cánh cửa kính mau chóng được đóng lại.
Bây giờ, ngồi co ro trong bóng tối, Silas dòm qua cánh cửa. Viên đá đỉnh vòm ở đâu đó trong ngôi nhà. Silas có thể cảm thấy điều đó Vẫn trong bóng tối, hắn nhích lại gần cửa kính, háo hức nghe xem họ đang nói chuyện gì. Hắn sẽ để cho họ năm phút. Nếu họ không hé lộ nơi họ giấu viên đá đỉnh vòm, Silas sẽ phải vào và thuyết phục họ bằng vũ lực.
Bên trong phòng làm việc, Silas có thể thấy thái độ hoang mang của người chủ.
"Đại sư?", Teabing tắc nghẹn, ông nhìn Sophie. "Jacques Saunière?".
Sophie gật đầu, thấy rõ vẻ bị sốc trong mắt ông.
"Nhưng cô không cách nào biết được điều đó?".
"Jacques Saunière là ông tôi".
Teabing loạng choạng lùi lại trên đôi nạng, phóng một cái nhìn về phía Langdon, ông này gật đầu. Teabing quay trở lại phía Sophie: "Thưa cô Neveu, tôi không còn biết nói sao. Nếu quả thực là thế, thì tôi xin thành thật chia buồn với cô. Tôi xin thú thực rằng, trong cuộc tìm kiếm của mình, tôi đã lên danh sách những người ở Paris, những người mà tôi nghĩ có thể dính líu với Tu viện Sion. Jacques Saunière cũng ở trong danh sách này cùng với nhiều người khác nữa. Nhưng là Đại Sư, cô nói vậy ư? Thật khó lường". Teabing yên lặng một lát và sau đó lắc đầu "Nhưng vẫn chưa rõ ràng lắm. Thậm chí nếu ông cô là Đại Sư của Tu viện và chính bản thân ông đã tạo ra viên đá đỉnh vòm thì ông cũng sẽ không bao giờ nói cho cô biết cách làm thế nào để tìm thấy nó. Viên đá đỉnh vòm tiết lộ đường dẫn tới kho báu tối hậu của hội kín này. Dù có là cháu gái hay không, cô cũng không thể được chọn để nhận loại thông tin như vậy".
"Ông Saunière đang hấp hối khi ông truyền lại thông tin này", Langdon nói, "Ông chẳng còn mấy lựa chọn".
"Ông ấy không cần lựa chọn", Teabing cãi. "Có ba ssénéchal cũng biết về bí mật này. Đó là cái hay trong hệ thống của họ.
Khi một trong ba người đó lên chức Đại Sư, họ sẽ bổ nhiệm một pháp quan mới và cùng chia sẻ bí mật về viên đá đỉnh vòm".
"Tôi đoán là ông không xem toàn bộ bản tin phát thanh", Sophie nói, "Cùng với ông tôi, ba người Paris lỗi lạc khác cũng đã bị sát hại hôm nay. Tất cả đều theo cùng một cách. Tất cả đều có vẻ như đã bị tra hỏi".
Cằm Teabing trễ xuống: "Và cô nghĩ họ là…".
"Những pháp quan", Langdon nói.
"Nhưng bằng cách nào? Một tên sát thủ không cách nào biết được nhân thân của tất cả bốn thành viên đứng đầu Tu viện Sion! Hãy xem tôiđây, tôi đã tìm kiếm họ hàng thập kỉ nay, và tôi thậm chí không biết tên một thành viên nào của Tu viện Sion. Thật khó có thể tin rằng cả ba pháp quan và Đại Sư lại có thể bị phát hiện và giết trong cùng một ngày".
"Tôi không tin rằng thông tin này được thu thập chỉ trong một ngày", Sophie nói. "Nó có vẻ giống như một cú decapiter (1) đã được lên kế hoạch cẩn thận. Đó là một kỹ thuật chúng tôi thường dùng để đánh những nghiệp đoàn tội phạm có tổ chức.
Nếu DCPJ muốn xoá sổ một băng nào đó, họ sẽ lặng lẽ nghe ngóng và theo dõi trong nhiều tháng liền, xác định tất cả những tên đầu sỏ, rồi sau đó mới vào cuộc và bắt cả bọn cùng một lúc.
Đó là chặt đầu. Không còn thủ lĩnh, băng sẽ hỗn loạn và để lộ những thông tin khác nữa. Có thể là một kẻ nào đó đã kiên nhẫn theo dõi Tu viện Sion và sau đó mới tấn công với hy vọng những người đứng đầu sẽ tiết lộ nơi giấu viên đá đỉnh vòm".
Teabing có vẻ vẫn chưa tin: "Nhưng những thành viên khác sẽ không bao giờ nói. Họ đã thề giữ bí mật. Thậm chí cả khi đối mặt với cái chết".
"Chính xác", Langdon nói. "Nghĩa là, nếu họ không tiết lộ bí mật, và họ bị giết…".
Teabing há hốc miệng: "…thì viên đá đỉnh vòm sẽ bị mất vĩnh viễn?".
"Và cùng với nó", Langdon nói, "là cả Chén Thánh".
Thân hình Teabing như chao đảo dưới trọng lượng những lời của Langdon. Rồi, như thể quá mệt mỏi để đứng lâu hơn nữa, ông buông mình trên chiếc ghế, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ.
Sophie bước tới, giọng êm dịu: "Xét tình thế gay go của ông tôi rất có thể là trong hoàn toàn tuyệt vọng ông đã cố gắng truyền lại bí mật cho một ai đó ngoài hội kín của mình. Một ai đó mà ông nghĩ là mình có thể tin cậy trong gia đình ông".
Mặt Teabing tái đi: "Nhưng cái kẻ có khả năng tấn công… phát hiện được nhiều như vậy về những người trong hội kín đó", ông ngừng lời, để lộ ra mối lo sợ mới. "Chỉ có thể là một thế lực. Việc thâm nhập kiểu này chỉ có thể tiến hành bởi kẻ thù lâu đời nhất của Tu viện Sion".
Langdon ngước lên: "Giáo hội?". "Còn ai khác? Roma cũng tìm kiếm Chén Thánh suốt nhiều thế kỷ nay".
Sophie hoài nghi: "Ông nghĩ là Giáo hội đã giết ông tôi?".
Teabing trả lời: "Đây không phải là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội giết người để tự bảo vệ. Những tài liệu đi kèm với Chén Thánh là thùng thuốc nổ, và Giáo hội muốn huỷ chúng từ bao năm nay".
Langdon cũng thấy khó chấp nhận giả thuyết của Teabing rằng Giáo hội đã trắng trợn giết người để giành được những tài liệu này. Đã tửng gặp Giáo hoàng mới và nhiều vị trong số các hồng y giáo chủ, Langdon biết họ là những con người tâm linh sâu sắc họ ắt không bao giờ dung túng thủ đoạn ám sát.
Bất kể cái được-mất là gì.
Sophie dường như cũng nghĩ vậy: "Không có khả năng những thành viên này bị giết bởi một kẻ nào đó bên ngoài Giáo hội sao? Một ai đó không biết Chén Thánh thực ra là cái gì?
Chiếc Chén của Chúa Jesus, nói cho cùng, vẫn là một vật báu hấp dẫn. Chắn chắn những kẻ săn tìm báu vật đã từng giết người vì những thứ ít đáng giá hơn nhiều".
"Theo kinh nghiệm của tôi", Teabing nói, "con người ta sẵn sàng làm những điều ghê gớm hơn nhiều để tránh cái họ sợ hơn là để có cái mà họ mong muốn. Tôi cảm thấy sự tuyệt vọng trong cuộc tấn công này vào Tu viện Sion".
"Leigh", Langdon nói, "lập luận này thật nghịch lí. Tại sao những thành viên của giới giáo sĩ Thiên chúa Giáo lại mưu sát những thành viên của Tu viện Sion trong nỗ lực tìm ra và phá huỷ những tài liệu mà dù sao họ cũng tin là bằng chứng giả mạo".
Teabing cười tủm tỉm: "Tháp ngà của Harvard đã làm anh đâm khờ khạo, Robert. Phải, giới giáo sĩ ở Roma được Chúa ban cho niềm tin mãnh liệt, và chính bởi điều này, tín ngưỡng của họ có thể vượt qua bất cứ cơn dông bão nào, kể cả những tài liệu phủ nhận tất cả mọi thứ mà họ tôn thờ. Nhưng phần còn lại của thế giới thì sao? Những người không được ban cho đức tin tuyệt đối?
Những người chứng kiến sự tàn bạo trên thế giới và lên tiếng, Chúa đang ở đâu? Những người chứng kiến những bê bối của Giáo hội và lên tiếng hỏi, những kẻ mạo xưng là mình nói sự thật về Thiên Chúa thế nhưng lại dối trá để che đậy sự lạm dụng tình dục trẻ em do chính tu sĩ của họ làm, những kẻ đó là ai?".
Teabing ngừng lại. "Chuyện gì xảy ra với những người đó, Robert, nếu những bằng chứng khoa học đầy sức thuyết phục chỉ ra rằng lời giải thích của Giáo hội về câu chuyện Chúa Jesus là không chính xác và rằng câu chuyện vĩ đại nhất từng được kể, trên thực tế, chỉ là câu chuyện bịp vĩ đại nhất".
Langdon không đáp.
"Tôi sẽ nói cho các bạn biết chuyện gì xảy ra nếu những tài liệu này lọt ra ngoài", Teabing nói. "Toà thánh Vatican sẽ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng đức tin chưa từng thấy trong lịch sử suốt hai thiên niên kỷ của mình".
Sau hồi lâu yên lặng, Sophie nói: "Nhưng nếu Giáo hội phải chịu trách nhiệm về cuộc tấn công này thì tại sao đến bây giờ họ mới hành động? Sau bao nhiêu năm? Tu viện Sion vẫn giấu kín những tài liệu Sangreal. Họ không đem lại sự đe doạ tức thời đối với Giáo hội".
Teabing trút một tiếng thở dài lo ngại và liếc nhìn Langdon: "Robert, tôi đồ rằng anh biết rất rõ trách nhiệm cuối cùng của Tu viện Sion?".
Langdon cảm thấy nghẹn thở khi nghĩ đến điều đó: "Tôi biết".
"Cô Neveu", Teabing nói, "Giáo hội và Tu viện Sion đã có sự thoả thuận ngầm từ nhiều năm nay. Đó là, Nhà thờ không tấn công Tu viện, và ngược lại Tu viện Sion tiếp tực giữ kín những tài liệu Sangreal". Ông ngừng lời. "Tuy nhiên, một phần lịch sử Tu viện Sion luôn luôn bao gồm một kế hoạch phơi bày bí mật này.
Đến một ngày cụ thể nào đó trong lịch sử, hội kín này dự định sẽ phá vỡ sự im lặng và hoàn tất thắng lợi cuối cùng của mình bằng cách phơi bày tài liệu Sangreal cho thế giới biết và lớn tiếng công bố câu chuyện thực sự về Jesus cho tất cả mọi người biết".
Sophie đăm đăm nhìn Teabing trong yên lặng. Cuối cùng, cô ngồi xuống: "Ông nghĩ rằng ngày ấy sắp đến? Và Giáo hội biết thế?".
"Chỉ là suy đoán thôi", Teabing nói."Nhưng chắc chắn nó sẽ tạo động lực cho Giáo hội tiến hành một cuộc tấn công tổng lực để tìm ra những tài liệu đó trước khi quá muộn".
Langdon có cảm giác không dễ chịu là Teabing có lí: "Ông có nghĩ rằng Giáo hội có khả năng phát hiện ra những bằng chứng về cái ngày đó của Tu viện Sion?".
"Tại sao không? - Nếu chúng ta cho rằng Giáo hội có thể khám phá ra nhân thân của các thành viên của Tu viện Sion, thì chắc chắn họ cũng có thể biết được kế hoạch này. Và thậm chí nếu không biết thời gian chính xác thì sự dị đoan cũng có thể thắng thế ở họ. "Dị đoan?" Sophie hỏi.
"Theo lối nói tiên tri", Teabing nói, "thì hiện nay chúng ta đang ở trong một thời kì của những thay đổi lớn lao. Thiên niên kỉ hai vừa mới trôi qua và cùng với nó là sự kết thúc kỉ nguyên chiêm tinh Song Ngư kéo dài 2000 năm và cũng chính là sao chiếu mệnh của Jesus. Như bất cứ nhà chiêm tinh - ký tượng học nào đều sẽ nói với cô, lý tưởng của cung Song Ngư tin rằng con người cần phải được chỉ bảo những điều cần làm bởi những quyền lực cao hơn vì con người không có khả năng tự suy nghĩ.
Do đó kỉ nguyên Song Ngư là thời kì của lòng nhiệt thành tôn giáo. Tuy nhiên, bây giờ, chúng ta đang bước vào Kỷ của Cung Bảo Bình - người mang nước - lí tưởng cung này cho rằng con người sẽ biết được sự thực và có khả năng tự suy nghĩ cho bản thân. Sự thay đổi về hệ tư tưởng đó rất lớn, và ngay bây giờ sự thay đổi này đang diễn ra".
Langdon cảm thấy rùng mình. Lời tiên tri của các chiêm tinh chưa bao giờ dành được nhiều sự quan tâm hay tín nhiệm của ông, nhưng ông biết có những người trong Giáo hội rất tin tưởng nó. "Giáo hội gọi giai đoạn chuyển đổi này là Ngày Tận Cùng".
Sophie có vẻ hoài nghi: "Giống như tận thế? Giống như những sự kiện trong sách Khải Huyền?".
"Không", Langdon trả lời, "đó là một quan niệm sai lầm thông thường. Có nhiều tôn giáo nói đến Ngày Tận Cùng. Nó không chỉ sự tận thế, mà chỉ sự kết thúc kỷ nguyên hiện tại của chúng ta - kỷ nguyên Song Ngư, bắt đầu từ khi Christ ra đời, kéo dài 2000 năm, và tàn lụi vào lúc chuyển giao thiên niên kỷ. Bây giờ, khi chúng ta đã bước vào kỷ nguyên Bảo Bình, Ngày Tận Cùng đã đến".
"Nhiều nhà sử học về Chén Thánh", Teabing bổ sung, "tin rằng nếu Tu viện Sion quả thật định công bố sự thật thì thời điểm này trong lịch sử sẽ là thời điểm thích hợp mang ý nghĩa tượng trưng. Hầu hết các học giả nghiên cứu về Tu viện Sion, trong đó có cả tôi, đã đoán trước rằng thời điểm hội kín này công bố sự thực sẽ trùng khít với sự chuyển giao thiên niên kỷ. Hiển nhiên là điều đó đã không xảy ra. Phải thừa nhận rằng lịch Roman không khớp hoàn toàn với lịch chiêm tinh, cho nên có một vùng mơ hồ nào đó trong tiên đoán này. Tôi không biết bây giờ Giáo hội đã có thông tin nội bộ về ngày giờ chính xác chưa hay chỉ lo sợ vì lời tiên tri của các nhà chiêm tinh. Dù sao đi nữa, nó vẫn là phi vật chất. Cả hai kịch bản trên đều giải thích động cơ thúc đẩy Giáo hội mờ một cuộc tấn công phủ đầu chống lại Tu viện Sion". Teabing cau mày. "Và hãy tin tôi đi, nếu Giáo hội tìm thấy Chén Thánh, họ sẽ huỷ nó.Những tài liệu cũng như thánh tích của Mary Magdalene". Ánh mắt ông trở nên nặng trĩu. "Sau đó, bạn thân mến, cùng với sự tiêu vong của những tài liệu Sangreal, tất cả các bằng chứng cũng sẽ mất theo. Quá khứ sẽ bị xoá sạch vĩnh viễn".
Chậm rãi, Sophie kéo chiếc chìa khoá hình thập giá khỏi chiếc áo len chui cổ, đưa cho Teabing.
Teabing cầm lấy chiếc chìa khoá, xem xét: "Trời, con dấu của Tu viện Sion. Cô lấy nó ở đâu vậy?".
"Ông tôi giao lại cho tôi tối nay, trước khi ông chết".
Teabing rờ ngón tay lên hình chữ thập. "Chìa khoá của một nhà thờ?
Cô hít một hơi sâu: "Chìa khoá này mở đường tới viên đá đỉnh vòm".
Teabing hất đầu lên, mặt dại đi vì không tin: "Không thể. Tôi đã bỏ sót nhà thờ nào nhỉ? Tôi đã lùng sục mọi nhà thờ tại Pháp!".
"Nó không ở trong nhà thờ", Sophie nói. "Nó ở trong một ngân hàng kí thác Thuỵ Sĩ".
Vẻ kích động của Teabing nhạt đi: "Viên đá đỉnh vòm ở trong một nhà băng?".
"Một hầm két", Langdon nói rõ thêm.
"Một hầm két nhà băng?" Teabing lắc đầu thật mạnh.
"Không thể. Viên đá đỉnh vòm phải được giấu dưới dấu hiệu Hoa Hồng".
"Đúng vậy!"', Langdon nói. "Nó được đựng trong một cái hộp bằng gỗ hồng mộc có khắc bông hồng năm cánh".
Teabing như bị sét đánh: "Anh đã nhìn thấy viên đá đỉnh vòm?".
Sophie gật đầu: "Chúng tôi đã đến nhà băng".
Teabing tiến lại chỗ họ, đôi mắt dại đi vì sợ hãi: "Các bạn của tôi, chúng ta phải làm một điều gì đó. Viên đá đỉnh vòm đang gặp nguy hiểm! Chúng ta có nhiệm vụ phải bảo vệ nó. Ngộ nhỡ có những chiếc chìa khác thì sao? Những chiếc có lẽ đã bị đánh cắp từ những pháp quan bị giết? Ngộ nhỡ Giáo hội có thể vào được nhà băng như các bạn…".
"Thì đã quá muộn rồi", Sophie nói. "Chúng tôi đã di chuyển viên đá đỉnh vòm".
"Cái gì! Các bạn đã đem nó khỏi nơi cất giấu rồi sao?".
"Đừng lo!", Langdon nói, "viên đá đỉnh vòm đã được cất giấu an toàn".
"Cực kỳ an toàn, tôi hy vọng thế?".
"Thực ra", Langdon nói, không giấu nổi nụ cười, "điều đó phụ thuộc vào việc ông có thường xuyên quét bụi dưới gầm đi văng của mình hay không?".
***
Gió bên ngoài Château Villette đã mạnh lên, và chiếc áo chùng của Silas tốc lên trong khi hắn khom người gần cửa sổ. Mặc dầu hắn chỉ nghe được lõm bõm, nhưng từ viên đá đỉnh vòm đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong câu chuyện. Nó ở bên trong.
Những lời của Thầy Giáo vẫn còn tươi nguyên trong tâm trí hắn. Hãy vào Château Villette. Lấy viên đá đỉnh vòm. Đừng đả thương ai.
Bây giờ, Langdon cùng những người kia đã đột nhiên rời sang một phòng khách tắt đèn phòng làm việc trước khi đi.
Giống như một con báo đang rình mồi. Silas lẻn đến cửa kính.
Cửa không khoá, hắn lẻn vào bên trong và đóng lại lặng lẽ phía sau. Hắn vẫn có thể nghe thấy những tiếng nói bị nghẹt lại từ một phòng khác vẳng tới. Silas rút súng lục khỏi túi, tháo chốt an toàn và lần theo hành lang. Chú thích: (1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: chặt đầu
__________________ Chỉ mất một phút để quen ai đó, một giờ để thích ai đó , một ngày để yêu ai đó , nhưng sẽ là cả đời để bạn quên đi một người mà bạn yêu.
Khi yêu một người nào đó bạn hãy để cho người ấy ra đi (nếu họ muốn) nếu họ quay lại họ thuộc về bạn, còn nếu họ không quay lại có nghĩa là từ trước đến giờ họ chưa bao giờ thuộc vê bạn. -------------0978184058, 01229921853